Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất số 451/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 451/2023/DS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG, TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 551/2023/TLST-DS ngày 07/7/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 500/2023/QĐXXST-DS ngày 02/11/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng V. (Gọi tắt là Ngân hàng).

Địa chỉ trụ sở: Số 2, đường L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V – Cc vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn T – Cc vụ: Trưởng phòng Tổng hợp Ngân hàng chi nhánh tỉnh Cà Mau kiêm nhiệm phụ trách điều hành Ngân hàng chi nhánh huyện T, tỉnh Cà Mau. (Theo Quyết định ủy quyền số: 2665/QĐ- NHNo-PC ngày 01/12/2022 của Người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng V).

Người được ông T ủy quyền lại: Ông Châu Đông D – Cc vụ: Trưởng phòng kế hoạch kinh doanh huyện T tỉnh Cà Mau. (Theo Quyết định ủy quyền số: 829/NHNoTVT-TH ngày 20/12/2023 của Trưởng phòng Tổng hợp Ngân hàng chi nhánh tỉnh Cà Mau kiêm nhiệm phụ trách điều hành Ngân hàng chi nhánh huyện T, tỉnh Cà Mau).

Địa chỉ: Khóm 9, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1950. Địa chỉ: Ấp R, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Văn N. Ông Nguyễn Văn C. Ông Nguyễn Văn T. Ông Nguyễn Văn Đ. Bà Phạm Kiều N. Cháu Phạm Minh K.

Người đại diện hợp pháp của cháu K: Ông Nguyễn Văn Đ và bà Phạm Kiều N – Là người đại diện theo pháp luật.

Cùng địa chỉ: Ấp R, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Ông D có mặt tại phiên tòa. Các đương sự khác vắng mặt không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 25/4/2023 của nguyên đơn và lời trình bày của ông Châu Đông D có tại hồ sơ và tại phiên tòa, thể hiện:

Ngày 30/12/2016 Ngân hàng và ông Nguyễn Văn T ký kết hợp đồng tín dụng số: 7504 - LAV - 201607311/HĐTD (gọi tắt là hợp đồng tín dụng), với nội dung: Ngân hàng cho ông T vay với hạn mức dư nợ cao nhất 180.000.000 đồng, thời hạn vay là 36 tháng, lãi suất ghi theo ngày nhận nợ, mục đích vay nuôi trồng thủy sản, trồng lúa và chăn nuôi. Sau khi ký hợp đồng tín dụng thì Ngân hàng đã giải ngân cho ông T nhận tổng số tiền 132.000.000 đồng (Trong đó: Số tiền 32.000.000 đồng theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân ngày 19/12/2017 lãi suất 8,7%/năm, lãi suất quá hạn 13,05%/năm; số tiền 100.000.000 đồng theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân ngày 19/12/2017 lãi suất 10%/năm, lãi suất quá hạn 15%/năm).

Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho các khoản nợ vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, giữa Ngân hàng và ông T đã ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 42069/HĐTC ngày 06/3/2015 (gọi tắt là hợp đồng thế chấp), với nội dung: Ông T thế chấp toàn bộ diện tích đất 9.620 m2 (Trong đó: Đất thổ cư 500 m2, đất lập vườn 1.400 m2, đất trồng lúa 7.720 m2) – thửa số 0120, 0121 – tờ bản đồ số 12 theo giấy Cng nhận quyền sử dụng đất số: C 101281 của Ủy ban nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau cấp ngày 10/3/1994 cho ông Nguyễn Văn T. Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.

Quá trình thực hiện hợp đồng kể từ khi nhận nợ thì ông T trả được nợ gốc 2.000.000 đồng, đối với tiền lãi không có trả khoản tiền nào. Do ông T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ theo thỏa thuận và khoản nợ vay đã chuyển sang nợ quá hạn.

Tính đến hết ngày 19/12/2023 ông T còn nợ Ngân hàng tổng số tiền 232.556.958 đồng (Trong đó: Nợ gốc là 130.000.000 đồng, nợ lãi là 102.556.958 đồng).

Nay ông D đại diện cho Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc ông T thanh toán một lần cho Ngân hàng số tiền gốc và lãi 232.556.958 đồng tính đến hết ngày 19/12/2023 và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ. Yêu cầu tiếp tục duy trì tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp đã ký kết để đảm bảo việc thi hành án cho Ngân hàng. Đối với tiền xem xét, thẩm định tại chỗ đã nộp 600.000 đồng yêu cầu ông T hoàn trả lại.

- Đối với bị đơn và các đương sự khác: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành mời và triệu tập nhiều lần để làm việc và xét xử nhưng đều vắng mặt không rõ lý do, nên không ghi nhận được ý kiến và yêu cầu trong vụ án.

- Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 13/9/2023, thể hiện: Trong toàn bộ phần đất đã thế chấp cho Ngân hàng, hiện nay ông T đã tặng cho ông Nguyễn Văn N quản lý 03 công tầm lớn, ông Nguyễn Văn C quản lý 02 công tầm lớn, ông Nguyễn Văn T quản lý 02 công tầm lớn, phần đất còn lại tặng cho ông Nguyễn Văn Đ (phần đất này ông Đ, bà Phạm Kiều N, cháu Nguyễn Minh K cùng trực tiếp quản lý và sử dụng). Việc tặng cho đất không có làm giấy tờ gì và hiện nay chưa chuyển tên quyền sử dụng đất. Trên phần đất thế chấp có 01 căn nhà cấp 4 (hiện trạng khung bê tông cốt thép, xây tường, nền lót gạch men, vách xây tường cao 4,9 mét (có dán gạch men cao 1,2 mét), máy lợp tol lạnh - diện tích nhà ngang 4,9 mét X dài 13,9 mét; 01 máy che bên hiên nhà ngang 2,7 mét X dài 13,9 mét khung tiền chế, nền láng xi măng) – Nhà xây dựng năm 2019 là tài sản của ông Đ, bà Kiều và chái K (việc xây dựng không thông qua cho Ngân hàng biết). Đối với căn nhà cấp 4 cây gỗ địa phương của ông T đã hư hỏng và đã tháo dỡ bỏ hoàn toàn không còn hiện vật.

- Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ngân hàng đã nộp tạm ứng 600.000 đồng (theo phiếu thu số: 138 ngày 29/8/2023) đã thực hiện và chi xong (theo bảng kê ngày 13/9/2023).

- Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên phát biểu:

Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tiến hành và thực hiện đúng theo quy định. Đối với các đương sự vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa không có lý do đã không chấp hành đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền 232.556.958 đồng (Trong đó: Nợ gốc là 130.000.000 đồng, nợ lãi là 102.556.958 đồng) tính đến hết ngày 19/12/2023 theo hợp đồng tín dụng và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký kết cho khi trả dứt nợ cho Ngân hàng. Tiếp tục duy trì tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã ký kết giữa các bên để đảm bảo việc thi hành án. Án phí và chi phí đề nghị xem xét theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, Cng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về thủ tục: Các đương sự vắng mặt tại phiên toà đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử, nhưng đều vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt những người này.

[2] Về quyền khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn xác định bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, nên thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là đúng theo quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn về việc thanh toán tiền vốn vay và lãi theo hợp đồng tín dụng, đồng thời yêu cầu duy trì tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp để đảm bảo việc thi hành án. Bị đơn có N cư trú tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất” là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về pháp luật áp dụng: Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết để giải quyết.

[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[4.1] Về hợp đồng tín dụng: Hội đồng xét xử xét thấy tại hợp đồng tín dụng số: 7504 - LAV - 201607311/HĐTD ngày 30/12/2016 và 02 giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân cùng ngày 19/12/2017 do nguyên đơn cung cấp có thể hiện chữ ký và họ tên của bị đơn, nội dung tại hợp đồng và giấy nhận nợ thể hiện số tiền cho vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất vay, phương thức thanh toán nợ theo lời trình bày của người diện nguyên đơn là đúng. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác để triệu tập bị đơn hợp lệ tham gia tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, nhưng bị đơn không đến để tham gia và cũng không có ý kiến phản đối gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời bị đơn cũng không cung cấp tài liệu, Cng cứ gì Cng minh đã thanh toán xong các khoản nợ theo yêu cầu của Ngân hàng. Như vậy, có căn cứ xác định thực tế bị đơn có vay tiền của Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết và hiện nay còn dư nợ với tổng số tiền 232.556.958 đồng (Trong đó: Nợ gốc là 130.000.000 đồng, nợ lãi là 102.556.958 đồng) tính đến hết ngày 19/12/2023 chưa thanh toán là đúng, lãi suất thỏa thuận theo hợp đồng giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật chuyên ngành và luật chung. Do bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên cần buộc bị đơn có nghĩa vụ trả toàn bộ khoản nợ này cho nguyên đơn và lãi phát sinh theo hợp đồng cho đến khi trả dứt nợ là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 Bộ luật dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 7, Điều 8, Điều 13 Nghị quyết số: 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tố cao về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

[4.2] Về hợp đồng thế chấp tài sản: Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán khoản vay, giữa Ngân hàng và ông T đã ký hợp đồng thế chấp số: 42069/HĐTC ngày 06/3/2015 thế chấp toàn bộ diện tích đất 9.620 m2 (Trong đó: Đất thổ cư 500 m2, đất lập vườn 1.400 m2, đất trồng lúa 7.720 m2) – thửa số 0120, 0121 – tờ bản đồ số 12 theo giấy Cng nhận quyền sử dụng đất số: C 101281 của Ủy ban nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau cấp ngày 10/3/1994 cho ông Nguyễn Văn T để đảm bảo các khoản nợ vay. Hội đồng xét xử xét thấy việc ký kết hợp đồng thế chấp được thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm và hợp đồng có hiệu lực theo quy định tại Điều 317, Điều 318, Điều 319 Bộ luật dân sự; Điều 167, Điều 168, Điều 188 Luật đất đai; Điều 4, Điều 5, Điều 6 Nghị định số: 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về việc đăng ký biện pháp bảo đảm; Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 56, Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 71 Nghị định số: 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số: 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ. Do hợp đồng thế chấp được lập có hiệu lực, nên cần tiếp tục duy trì tài sản thế chấp để đảm bảo việc thi hành án cho Ngân hàng là đúng và buộc ông T, ông N, ông C quản lý 02 công tầm lớn, ông T, ông Đ, bà N, cháu K giao toàn bộ tài sản thế chấp để đảm bảo việc thi hành án cho Ngân hàng, nếu ông T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ cho Ngân hàng.

[4.3] Đối căn nhà của gia đình ông Đ, bà N và cháu K: Do việc thế chấp tài sản là hợp pháp, căn nhà của xây cất sau thời điểm thế chấp. Đã xác định được nghĩa vụ trả nợ và tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất sẽ được bán phát mại tài sản, nếu không thanh toán được nợ. Nên quá trình thi hành án trong trường hợp bán phát mại tài sản thì ông Đ, bà N và cháu K được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và mua tài sản gắn liền với đất nếu có nhu cầu. Trường hợp ông Đ, bà N và cháu K không nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và không mua tài sản gắn liền với đất thì sẽ được thanh toán giá trị tài sản của mình trên đất theo quy định của pháp luật.

[4.4] Đối với việc tặng cho quyền sử dụng đất: Quá trình giải quyết vụ án các đương sự không có yêu cầu, nên không có căn cứ xem xét giải quyết trong vụ án này theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4.5] Đối với tiền xem xét, thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận, nên ông T phải chịu theo quy định tại Điều 155, Điều 156, Điều 157, Điều 158 Bộ luật tố tụng dân sự. Buộc ông T trả lại cho Ngân hàng số tiền 600.000 đồng.

Từ những lập luận, phân tích, đánh giá Cng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận và có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng. Buộc ông Nguyễn Văn T phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền 232.556.958 đồng (Trong đó: Nợ gốc là 130.000.000 đồng, nợ lãi là 102.556.958 đồng) tính đến hết ngày 19/12/2023 và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết nợ. Buộc ông Nguyễn Văn T phải trả cho Ngân hàng số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 600.000 đồng. Duy trì tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số: 42069/HĐTC ngày 06/3/2015 để đảm bảo việc thi hành án cho Ngân hàng.

[5] Về án phí: Căn cứ các quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xét thấy bị đơn là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn nộp án phí và có đơn xin miễn án phí, nên được miễn không phải chịu án phí. Đối với yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng được chấp nhận nên không phải chịu án phí, số tiền tạm ứng án phí của nguyên đơn Ngân hàng đã dự nộp trước được hoàn lại toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 186, Điều 147, Điều 155, Điều 156, Điều 157, Điều 158 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 Bộ luật dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 167, Điều 168, Điều 188 Luật đất đai; Điều 4, Điều 5, Điều 6 Nghị định số: 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về việc đăng ký biện pháp bảo đảm; Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 56, Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 71 Nghị định số: 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số: 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ; Điều 7, Điều 8, Điều 13 Nghị quyết số: 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tố cao về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng V.

+ Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn T phải có nghĩa vụ trả số tiền 232.556.958 đồng (Trong đó: Nợ gốc là 130.000.000 đồng, nợ lãi là 102.556.958 đồng) cho nguyên đơn Ngân hàng V tính đến hết hết ngày 19/12/2023 và kể từ ngày 20/12/2023 ông Nguyễn Văn T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi đối số tiền nợ chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số: 7504 - LAV - 201607311/HĐTD ngày 30/12/2016 và 02 giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân cùng ngày 19/12/2017 cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ.

+ Tiếp tục duy trì tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 42069/HĐTC ngày 06/3/2015, bao gồm: Toàn bộ diện tích đất 9.620 m2 (Trong đó: Đất thổ cư 500 m2, đất lập vườn 1.400 m2, đất trồng lúa 7.720 m2) – thửa số 0120, 0121 – tờ bản đồ số 12 theo giấy Cng nhận quyền sử dụng đất số: C 101281 của Ủy ban nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau cấp ngày 10/3/1994 cho ông Nguyễn Văn T để đảm bảo việc thi hành án cho Ngân hàng.

* Trường hợp tài sản thế chấp được xử lý theo quy định của pháp luật để thi hành án cho Ngân hàng V thì buộc ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn Đ, bà Phạm Kiều N, cháu Phạm Minh K giao tài sản thế chấp để thi hành án.

* Quá trình thi hành án trong trường hợp bán phát mại tài sản thì ông Nguyễn Văn Đ, bà Phạm Kiều N và cháu Phạm Minh K được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và mua tài sản gắn liền với đất nếu có nhu cầu. Trường hợp ông Nguyễn Văn Đ, bà Phạm Kiều N và cháu Phạm Minh K không nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và không mua tài sản gắn liền với đất thì sẽ được thanh toán giá trị tài sản của mình trên đất theo quy định của pháp luật.

* Trường hợp ông Nguyễn Văn T toán xong toàn bộ số nợ, thì Ngân hàng V có trách nhiệm trả giấy Cng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Nguyễn Văn T.

2. Chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn Văn T có trách nhiệm hoàn trả chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 600.000 đồng cho Ngân hàng V.

Kể từ ngày Ngân hàng V có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền xem xét, thẩm định tại chỗ nêu trên mà ông Nguyễn Văn T chậm thực hiện nghĩa vụ trả khoản tiền nói trên, thì ông Nguyễn Văn T còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền nói trên tương ứng với thời gian chậm trả.

3. Án phí sơ thẩm dân sự có giá ngạch:

Bị đơn ông Nguyễn Văn T thuộc trường hợp được miễn án phí.

Ngân hàng V đã dự nộp tạm ứng án phí trước với số tiền 5.491.000 đồng theo biên lai thu số: 0007025 ngày 06/7/2023 của chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được hoàn lại toàn bộ.

4. Ngân hàng có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất số 451/2023/DS-ST

Số hiệu:451/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về