TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 88/2023/DS-ST NGÀY 26/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 26 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 186/2022/TLST-DS ngày 24 tháng 11 năm 2022, về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2023/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần B, địa chỉ: 109 T, phường C, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phan Huy C, sinh năm 1986; địa chỉ: 134-136 T, phường H, thành phố Q, tỉnh Bình Định; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 6650/2017/QĐ-TGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần B và Văn bản ủy quyền số 04/2023/GUQ-LPB.BĐ ngày 14 tháng 04 năm 2023 của Giám đốc Chi nhánh Bình Định); có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Đỗ C, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn H, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định;
vắng mặt.
2. Bà Phạm Thị K, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn H, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 8 năm 2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Ngày 24 tháng 6 năm 2020 bà Phạm Thị K và ông Đỗ C có ký hợp đồng tín dụng số HDTD49020201473 để vay của Ngân hàng TMCP B số tiền 100.000.000 đồng, mục đích vay mua sắm đồ gia dụng, thời hạn vay 36 tháng, lãi suất vay 8,5%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Ngân hàng đã giải ngân cho vợ chồng bà K, ông C. Quá trình thực hiện hợp đồng, vợ chồng bà K, ông C nhiều lần vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tính đến ngày 26 tháng 5 năm 2023, vợ chồng bà K, ông C chỉ trả được một phần gốc và lãi, còn nợ gốc 61.079.932 đồng, nợ lãi 21.508.285 đồng và phạt lãi 1.096.050 đồng, tổng dư nợ là 83.684.267 đồng. Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà K, ông C trả cho Ngân hàng số nợ trên.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 26 tháng 12 năm 2022, bị đơn ông Đỗ C trình bày: Ông thừa nhận vợ chồng ông có vay nợ như Ngân hàng trình bày. Vì vợ ông đau bệnh không có khả năng trả nợ nên Ngân hàng yêu cầu thì ông xin trả nợ lãi hàng tháng còn nợ gốc đợi vợ ông khỏi bệnh ông sẽ thu xếp trả.
Tại phiên Toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Tòa án tiến hành thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án. Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không chấp hành quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng thương mại cổ phần B cho vợ chồng bà Phạm Thị K và ông Đỗ C vay để mua sắm đồ dùng gia đình. Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ tranh chấp dân sự mà cụ thể là tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vợ chồng bà K, ông C cư trú tại xã P, huyện T, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vợ chồng bà Phạm Thị K, ông Đỗ C vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt vợ chồng bà K, ông C.
[3] Xét yêu cầu trả nợ của Ngân hàng, Hội đồng xét xử nhận định: Căn cứ Hợp đồng tín dụng số HDTD49020201473 ngày 24 tháng 6 năm 2020, Chứng từ giải ngân giữa bên cho vay là Ngân hàng thương mại cổ phần B – Chi nhánh Bình Định và bên vay là vợ chồng bà Phạm Thị K, ông Đỗ C vay số tiền 100.000.000 đồng, để mua sắm đồ dùng gia đình, thỏa thuận lãi suất 8,5%/năm, lãi quá hạn đối với nợ gốc là 150% lãi suất trong hạn, lãi suất tiền vay cố định trong suốt thời gian vay vốn. Tính đến ngày 26 tháng 5 năm 2023, vợ chồng bà K, ông C còn nợ của Ngân hàng số tiền nợ gốc 61.079.932 đồng, nợ lãi 21.508.285 đồng và phạt lãi 1.096.050 đồng, tổng dư nợ là 83.684.267 đồng. Do vợ chồng bà K, ông C vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên căn cứ theo quy định tại các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng, Hội đồng xét xử nhận định cần chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần B, buộc vợ chồng bà K, ông C phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ gốc, lãi, phạt lãi nêu trên. Ông C xin trả nợ dần nhưng không được Ngân hàng chấp nhận nên vợ chồng bà K, ông C phải trả một lần.
[4] Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, vợ chồng bà Phạm Thị K, ông Đỗ C phải chịu 83.684.267 đồng x 5% = 4.184.000 đồng. Vì toàn bộ yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần B được chấp nhận nên Ngân hàng không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Buộc vợ chồng bà Phạm Thị K, ông Đỗ C trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần B tổng số tiền 83.684.267 (tám mươi ba triệu sáu trăm tám mươi bốn nghìn hai trăm sáu mươi bảy) đồng; trong đó nợ gốc 61.079.932 (sáu mươi mốt triệu không trăm bảy mươi chín nghìn chín trăm ba mươi hai) đồng, nợ lãi 21.508.285 (hai mươi mốt triệu năm trăm lẻ tám nghìn hai trăm tám mươi lăm) đồng và phạt lãi 1.096.050 (một triệu không trăm chín mươi sáu nghìn không trăm năm mươi) đồng.
Kể từ ngày 26 tháng 5 năm 2023, vợ chồng bà K, ông C còn phải chịu khoảng tiền lãi, phạt chậm trả lãi tương ứng với lãi suất của Hợp đồng tín dụng số HDTD49020201473 ngày 24 tháng 6 năm 2020 trên số dư nợ gốc cho đến khi trả hết nợ.
2. Về án phí: Vợ chồng bà Phạm Thị K, ông Đỗ C phải chịu 4.184.000 (bốn triệu một trăm tám mươi bốn nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần B 1.790.000 (một triệu bảy trăm chín mươi nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí mà Ngân hàng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001303 ngày 24 tháng 11 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 88/2023/DS-ST
Số hiệu: | 88/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về