TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BA RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 82/2023/DS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 211/2023/TLST-DS ngày 06 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2023/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2023/QĐST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần S.
Địa chỉ: số B - B đường N, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - Chức danh: Tổng Giám đốc (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền: Ông Trần Quốc K - Chức vụ: Giám đốc Chi nhánh B - Ngân hàng Thương mại cổ phần S; địa chỉ: Số C đường D, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (văn bản ủy quyền ngày 26-12- 2022), (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền lại: Chị Nguyễn Thị Hoàng Y, sinh năm: 1993; địa chỉ: số C đường D, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (văn bản ủy quyền ngày 27-12-2023), (có mặt).
Bị đơn: Chị Đào Ngọc Như T, sinh năm: 1994 (vắng mặt).
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số nhà A, tổ A, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nơi cư trú: Tổ I, ấp N, xã L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (địa chỉ ký kết hợp đồng tín dụng).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng người đại diện hợp pháp theo ủy quyền lại của nguyên đơn trình bày:
Ngày 13-4-2020, chị Đào Ngọc Như T ký “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, Bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) với nội dung đề nghị Ngân hàng Thương mại cổ phần S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) cấp thẻ tín dụng hạn mức 20.000.000đ, mục đích tiêu dùng cá nhân. Đến ngày 16-4-2020, Ngân hàng đồng ý cấp thẻ tín dụng cho chị T với hạn mức sử dụng 20.000.000đ, lãi suất 2,767%/tháng (lãi suất trong hạn) (sau đây chung gọi là “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020).
Sau khi được cấp thẻ tín dụng, từ ngày kích hoạt đến nay chị T đã thực hiện 04 giao dịch với tổng số tiền 27.859.790đ và đã thanh toán 26 lần được số tiền 26.770.000đ. Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 21 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ, tiền thanh toán được ưu tiên trừ vào các khoản phí, lãi, sau đó sẽ trừ tiếp vào các khoản giao dịch. Cụ thể, khoản nợ chị T chưa trả tính đến hết ngày 22-02-2023 được tính như sau:
Dư nợ ngày 22-02-2023 = Số tiền giao dịch - (số tiền thanh toán - phí, lãi), trong đó: Số tiền giao dịch 27.859.790đ, số tiền đã thanh toán 26.770.000đ, tổng các khoản phí 2.734.375đ và tổng tiền lãi 17.870.257đ.
Dư nợ đến ngày 22-02-2023 = 27.859.790đ - (26.770.000đ - 2.734.375đ - 17.870.257đ) = 21.694.422đ.
Quá trình thực hiện chị T không trả nợ theo thỏa thuận, mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng vẫn không có thiện chí trả. Do chị T vi phạm nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng, 90 ngày không thanh toán (Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng). Vì vậy, ngày 22-02- 2023, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn 4,15%/tháng trên số tiền nợ quá hạn (150% của lãi suất được công bố và áp dụng tại thời điểm hiện tại).
Tính đến ngày 28-12-2023, chị T còn nợ tổng cộng 30.935.346đ (trong đó nợ gốc 21.694.422đ và nợ lãi quá hạn 9.204.924đ).
Tiền lãi quá hạn được tính trên nợ gốc 21.694.422đ, lãi suất quá hạn 0,1383%/ngày (lãi trong hạn 2,77%/tháng; lãi quá hạn 2,77%/tháng x 150% = 4,15%/tháng = 0,1383%/ngày) từ ngày chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (ngày 22-02-2023) cho đến nay, cụ thể:
Lãi quá hạn = Số tiền lãi quá hạn 01 ngày x số ngày nợ quá hạn, trong đó:
- Số tiền lãi quá hạn 01 ngày = 21.694.422đ x 0,1383%/ngày = 30.003đ.
- Số ngày nợ quá hạn 308 ngày (từ ngày 22-02-2023 đến ngày 28-12-2023).
+ Lãi quá hạn = 30.003đ/ngày x 308 ngày = 9.240.924đ.
Vì vậy, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị T phải trả tổng số tiền tạm tính đến hết ngày 28-12-2023 là 30.935.346đ (trong đó nợ gốc 21.694.422đ và nợ lãi quá hạn 9.204.924đ) và tiền lãi phát sinh từ ngày 29-12-2023 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất thỏa thuận tại “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020.
Sau khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng chị Đào Ngọc Như T vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú của chị T, kết quả như sau:
Theo kết quả xác minh, Công an xã P, huyện L cung cấp thông tin: “Chị Đào Ngọc Như T, sinh năm: 1994, có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: A, tổ A, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chị T và gia đình chị T đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2017 đến nay, đi đâu thì địa phương không biết”.
Theo kết quả xác minh, Công an xã L, thành phố B cung cấp thông tin: “Tại thời điểm xác minh đương sự Đào Ngọc Như T có đặc điểm nhân thân như trên không thực tế sinh sống tại tổ I, ấp N, xã L, thành phố B. Đương sự T hiện nay ở đâu, làm gì thì không rõ” Tại phiên tòa người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt, nhưng có người đại diện theo ủy quyền lại tham gia; bị đơn vắng mặt không có lý do; nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và không ai cung cấp tài liệu, chứng cứ mới.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:
+ Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người gia tố tụng:
+ Nguyên đơn và người đại diện của nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ, nhưng chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự - Về việc giải quyết vụ án:
+ Ngày 16-4-2020, Ngân hàng và chị T thỏa thuận ký kết hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR. Căn cứ vào thu nhập của chị T, Ngân hàng đồng ý cấp thẻ tín dụng hạn mức sử dụng 20.000.000đ. Sau khi được cấp thẻ chị T thực hiện giao dịch với tổng số tiền 27.859.790đ và thanh toán được 26.770.000đ. Do chị T vi phạm Điều 2 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành thẻ nên ngày 22-02-2023, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ sang nợ gốc với số tiền 21.694.422đ (Điều 24 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành thẻ tín dụng), lãi suất được áp dụng đối với nợ quá hạn là 4,15%/tháng.
+ Tổng số nợ chị T phải trả cho Ngân hàng tạm tính đến ngày 28-12-2023 là 30.935.346đ (trong đó nợ gốc 21.694.422đ và nợ lãi quá hạn 9.204.924đ).
Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc chị T phải trả cho Ngân hàng số tiền tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 28-12-2023 là 30.935.346đ (trong đó nợ gốc 21.694.422đ và nợ lãi quá hạn 9.204.924đ) và tiếp tục chịu lãi phát sinh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Đào Ngọc N Thảo phải trả nợ gốc và nợ lãi phát sinh từ “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020, được xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện chị T có nơi cư trú tại: Số nhà A, tổ A, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nhưng sau khi thụ lý giải quyết Tòa án không tống đạt được các văn bản tố tụng do bị đơn do không còn sinh sống tại địa phương. Theo kết quả xác minh tại Công an xã P thì chị T và gia đình đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2017 đến nay, đi đâu thì địa phương không biết. Tại “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020, thể hiện bị đơn đang ở hiện tại địa chỉ: Tổ I, ấp N, xã L, thành phố B nên Tòa án nhân dân huyện Long Điền ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa giải quyết. Tuy nhiên, theo kết quả xác minh tại Công an xã L thì chị T không thực tế sinh sống tại địa phương nên Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân huyện Long Điền giải quyết theo thẩm quyền. Theo quy định nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết và tại đơn khởi kiện Ngân hàng lựa chọn Tòa án nhân dân huyện Long Điền giải quyết nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt, nhưng có người đại diện theo ủy quyền lại có mặt tham gia phiên tòa; bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải thanh toán khoản tiền phát sinh từ “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020, thì thấy:
[4.1] Ngày 13-4-2020, chị T ký “Giấy đồ nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR đề nghị Ngân hàng cấp thẻ tín dụng hạn mức 20.000.000đ, mục đích tiêu dùng cá nhân. Đến ngày 16-4-2020, Ngân hàng đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức 20.000.000đ, lãi suất thỏa thuận 2,767%/tháng. Sau khi được cấp thẻ, chị T thực hiện 04 giao dịch với tổng số tiền 27.859.790đ và đã thanh toán được 26 lần với số tiền 26.770.000đ. Lần cuối cùng chị T thực hiện nghĩa vụ trả nợ là ngày 22-10-2022 với số tiền 1.500.000đ và tính đến ngày 22-02-2023 còn nợ Ngân hàng 21.694.422đ, nhưng không thanh toán. Do chị T vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận, 90 ngày không thanh toán nên Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyền toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn 4,15%/tháng trên số tiền nợ quá hạn. Tính đến hết ngày 28-12-2023, chị T còn nợ Ngân hàng 30.935.346đ (trong đó nợ gốc 21.694.422đ và nợ lãi quá hạn 9.204.924đ).
[4.2] Xét “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020, được ký kết giữa hai bên trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ đúng quy định của pháp luật nên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ các bên tham gia hợp đồng. Do chị T vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu trả nợ gốc và nợ lãi theo quy định. Quá trình thụ lý giải quyết vụ án chị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập nhiều lần để làm rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xét thấy, chị T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu phải trả nợ gốc, nợ lãi phát sinh tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm và yêu cầu trả tiền lãi phát sinh, theo mức lãi suất thỏa thuận tại “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020 là có cơ sở chấp nhận.
[4.3] Từ những nhận định và phân tích nêu trên cần tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc chị T phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến hết ngày 28-12-2023 là 30.935.346đ (trong đó nợ gốc 21.694.422đ và nợ lãi quá hạn 9.204.924đ) và tiền lãi phát sinh từ ngày 29-12-2023 cho đến khi thanh toán hết nợ, theo mức lãi suất thỏa thuận tại “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020.
[5] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được Tòa án chấp nhận nên chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 30.935.346đ x 5% = 1.546.767đ (làm tròn số 1.546.000đ), theo quy định của pháp luật. Ngân hàng không phải chịu án phí sơ thẩm nên được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 26, 35, 39, 147, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự; Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S.
Buộc chị Đào Ngọc N T phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S 30.935.346đ (trong đó nợ gốc 21.694.422đ và nợ lãi quá hạn 9.204.924đ) và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 29-12-2023 cho đến khi thanh toán hết nợ, theo mức lãi suất thỏa thuận tại “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng” số 86/HĐT-BR ngày 16-4-2020.
2. Án phí phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc chị Đào Ngọc Như T phải nộp 1.546.000 (một triệu, năm trăm bốn mươi sáu nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
- Ngân hàng Thương mại cổ phần S được hoàn trả 574.614 (năm trăm, bảy mươi bốn nghìn, sáu trăm mười bốn) đồng, tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001743 ngày 24 tháng 5 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
4. “Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự”./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 82/2023/DS-ST
Số hiệu: | 82/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về