Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 677/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHI MINH

BẢN ÁN 677/2023/DS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 145/2023/TLST-DS ngày 06 tháng 3 năm 2023 về việc “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2023/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 96/2023/QĐST-DS ngày 08 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S (S) Trụ sở: Lầu 8, số 266-268 NKKN, phường VTS, Quận 3, TP.H Tổ chức đại diện theo ủy quyền khởi kiện:

Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và Khai thác tài sản Ngân hàng S. Trụ sở: 278 NKKN, phường VTS, Quận 3, TP H Đại diện: Ông Thân Lê N - Giấy ủy quyền số 18/2023/UQ-TGĐ ngày 03/01/2023 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng Thiện T sinh năm: 1984 HKTT: 100/532B TQĐ, Phường 5, quận P, TP H. (vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/02/2023 và các lời khai trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng TMCP S (có ông Thân Lê N đại diện theo ủy quyền) trình bày:

Ngày 21/6/2017, ông T có ký với Ngân hàng TMCP S (gọi tắt là Ngân hàng) Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng).

Căn cứ thu nhập của ông T, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 31.000.000 (ba mươi mốt triệu) đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp Thẻ tín dụng, ông T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 33.502.440 (ba mươi ba triệu năm trăm lẻ hai ngàn bốn trăm bốn mươi) đồng.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay, ông T đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 10.384.706 đồng (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông T vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông T vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Ngày 31/10/2018, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn tại thời điểm này là 32.555.099 đồng làm nợ gốc, áp dụng lãi suất nợ quá hạn là 3.225%/tháng (= Lãi suất trong hạn 2.15%/tháng x 150%). (Điều 23 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Tính đến ngày 13/7/2023, ông T còn nợ Ngân hàng số tiền nợ phát sinh từ hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là hợp đồng) là 93.694.858 (chín mươi ba triệu sáu trăm chín mươi bốn ngàn tám trăm năm mươi tám) đồng, trong đó: Nợ gốc: 32.555.099 đồng; Nợ lãi quá hạn: 61.139.759 đồng.

Ngân hàng TMCP S yêu cầu ông T tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh kể từ ngày 14/7/2023 trở đi cho đến khi trả dứt nợ theo lãi suất quy định tại Hợp đồng đã ký kết.

Thời hạn thanh toán: Thanh toán một lần toàn bộ số tiền nợ nêu trên ngay khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

- Bị đơn ông Nguyễn Hoàng Thiện T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án; giấy triệu tập làm bản tự khai; giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (lần 1, lần 2); thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa lần 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Do đó, Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Đồng thời vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bổ sung phần tính lãi đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 25/8/2023). Cụ thể, yêu cầu ông T thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và lãi phát sinh tạm tính đến ngày 25/8/2023 là 95.199.729 (chín mươi lăm triệu một trăm chín mươi chín ngàn bảy trăm hai mươi chín) đồng, trong đó:

- Nợ gốc : 32.555.099 đồng;

- Nợ lãi quá hạn : 62.644.630 đồng.

Lãi tiếp tục được tính kể từ ngày 26/8/2023 cho đến khi ông T trả hết nợ gốc theo mức lãi suất quy định trong hợp đồng.

- Bị đơn vắng mặt không lý do.

Do đó, Hội đồng xét xử công bố lời khai của các đương sự và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đều tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng. Tòa án giải quyết vụ án đúng thẩm quyền; Thẩm phán đã tiến hành thu thập chứng cứ đầy đủ, xác định đúng thành phần tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: Căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Giữa nguyên đơn và bị đơn đã có thực hiện việc giao kết Hợp đồng sử dụng thẻ Tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ vào Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, bảng sao kê lịch sử thanh toán thẻ tín dụng của bị đơn, có đủ căn cứ để xác định bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ. Căn cứ khoản 2 Điều 91, Điều 95 của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng, bị đơn có nơi cư trú tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật.

[1.2]. Về việc xét xử vắng mặt nguyên đơn:

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[1.3]. Về việc xét xử vắng mặt bị đơn:

Ngay sau khi Tòa án thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật cho bị đơn như:

Thông báo về việc thụ lý vụ án; giấy triệu tập làm bản tự khai; giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; giấy triệu tập và quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa lần 2. Tuy nhiên, bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, các tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án.

[2]. Về nội dung tranh chấp:

[2.1]. Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền nợ gốc 32.555.099 (ba mươi hai triệu năm trăm năm mươi lăm ngàn không trăm chín mươi chín) đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) ngày 21/6/2017 có chữ ký xác nhận của bị đơn ông Nguyễn Hoàng Thiện T thể hiện: Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 31.000.000 (ba mươi mốt triệu) đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Như vậy, giữa nguyên đơn và bị đơn đã phát sinh quan hệ giao dịch bằng hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định tại điểm d khoản 3 Điều 98 của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010.

Theo bản sao kê giao dịch do Ngân hàng cung cấp thể hiện, từ ngày 31/10/2018 trở đi, ông T không thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho Ngân hàng, ông T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận mà hai bên đã ký kết. Như vậy, căn cứ vào Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng (đơn vị phát hành thẻ), Ngân hàng có quyền chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu thanh toán số nợ gốc 32.555.099 (ba mươi hai triệu năm trăm năm mươi lăm ngàn không trăm chín mươi chín) đồng là có căn cứ để chấp nhận.

[2.2]. Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền nợ lãi 62.644.630 (sáu mươi hai triệu sáu trăm bốn mươi bốn ngàn sáu trăm ba mươi) đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng (đơn vị phát hành thẻ) quy định mức lãi suất quá hạn là 150% mức lãi suất công bố áp dụng tại thời điểm hiện tại. Ngoài ra, tại Điều 22 của Bản điều khoản nêu trên thể hiện Ngân hàng có quyền thay đổi mức lãi suất trong từng thời kỳ theo Quyết định của mình mà không thông báo trước cho chủ thẻ.

Như vậy, tiền lãi quá hạn tính đến ngày 25/8/2023 là 62.644.630 (sáu mươi hai triệu sáu trăm bốn mươi bốn ngàn sáu trăm ba mươi) đồng theo đúng bảng tóm tắt sao kê mà nguyên đơn lập là có căn cứ để chấp nhận.

Ngoài ra, bị đơn còn phải chịu tiền lãi từ ngày 26/8/2023 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất quá hạn thỏa thuận tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 21/6/2017.

[3]. Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận về việc đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn có cơ sở.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[4]. Về án phí:

Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trên toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận là 4.759.986 (bốn triệu bảy trăm năm mươi chín ngàn chín trăm tám mươi sáu) đồng.

Nguyên đơn không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 2 Điều 91, Điều 95 và điểm d khoản 3 Điều 98 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015;

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

- Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP S.

Buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng Thiện T có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP S số tiền nợ gốc và tiền lãi phát sinh từ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng ngày 21/6/2017 tạm tính đến ngày 25/8/2023 là 95.199.729 (chín mươi lăm triệu một trăm chín mươi chín ngàn bảy trăm hai mươi chín) đồng, trong đó:

- Nợ gốc : 32.555.099 đồng;

- Nợ lãi quá hạn : 62.644.630 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông Nguyễn Hoàng Thiện T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 21/6/2017.

Thời hạn thanh toán: Ngay sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về án phí:

- Ông Nguyễn Hoàng Thiện T phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 4.759.986 (bốn triệu bảy trăm năm mươi chín ngàn chín trăm tám mươi sáu) đồng.

- Ngân hàng TMCP S được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.165.000 (hai triệu một trăm sáu mươi lăm ngàn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0030153 ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Việc thi hành án được thực hiện tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 677/2023/DS-ST

Số hiệu:677/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về