Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 53/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 53/2021/DS-ST NGÀY 26/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 8 năm 2021 tại hội trường Toà án nhân dân huyện Cư M’gar xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2021/TLST-DS ngày 08 tháng 3 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng N Địa chỉ: 02 L, phường T, quận B, TP. Hà Nội Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn Th – Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Xuân Tr – Giám đốc Ngân hàng N Chi nhánh E Bắc Đắk Lắk Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Trần Nguyên V – Phó giám đốc Ngân hàng N - Chi nhánh E, Bắc Đắk Lắk, vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Ông Đỗ Trung D, sinh năm 1981 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tiến hành tố tụng đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 29/10/2019, ông Đỗ Trung D ký Hợp đồng tín dụng số 5230LAV201901089 vay Ngân hàng N số tiền 170.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu đồng); thời hạn vay 36 tháng; kỳ hạn trả gốc: 03 kỳ, kỳ 1: ngày 29/10/2020 trả 50.000.000 đồng, kỳ 2: ngày 29/10/2021 trả 60.000.000 đồng, kỳ 3: ngày 29/10/2022 trả 60.000.000 đồng; lãi suất 12,5%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn. Tài sản đảm bảo cho khoản vay là quyền sử dụng đất, thửa đất số 18, tờ bản đồ số 53, địa chỉ thửa đất xã E diện tích 18150m2, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 218721 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 13/8/2009. Quá trình thực hiện hợp đồng ông D không thực hiện đúng nghĩa vụ của bên vay như cam kết, vi phạm nghĩa vụ của bên vay, không trả nợ cho Ngân hàng mặc dù Ngân hàng đã thông báo và làm việc nhiều lần yêu cầu ông D trả nợ. Tính đến ngày 25/8/2021 ông D còn nợ Ngân hàng 211.120.205 đồng (Trong đó nợ gốc 170.000.000 đồng, nợ lãi 41.120.205 đồng).

Ngân hàng đề nghị Tòa án buộc ông Đỗ Trung D phải trả cho Ngân hàng tính đến ngày 25/8/2021 là 211.120.205 đồng (trong đó nợ gốc 170.000.000 đồng, nợ lãi 41.120.205 đồng) và tiếp tục trả lãi phát sinh trên số nợ gốc kể từ ngày 26/8/2021 theo hợp đồng tín dụng số: 5230LAV201901089, ngày 29/10/2019 cho đến khi trả xong nợ.

Trường hợp ông D không trả được nợ hoặc trả không đầy đủ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mãi tài sản mà ông D đã thế chấp cho Ngân hàng để thu hồi nợ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Đỗ Trung D đều vắng mặt không có lý do; vì vậy Tòa án không tiến hành lấy lời khai, không hòa giải đươc.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án;

Đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng.

Bị đơn không thực hiện đúng và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 463; Điều 466; Điều 468 Bộ luật dân sự;

Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N.

Buộc ông Đỗ Trung D phải trả cho Ngân hàng tính đến ngày 25/8/2021 là 211.120.205 đồng (trong đó nợ gốc 170.000.000 đồng, nợ lãi 41.120.205 đồng) và tiếp tục trả lãi phát sinh trên số nợ gốc kể từ ngày 26/8/2021, theo hợp đồng tín dụng số: 5230LAV201901089, ngày 29/10/2019 cho đến khi trả xong nợ.

Trường hợp ông D không trả được nợ hoặc trả không đầy đủ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mãi tài sản mà ông D đã thế chấp cho Ngân hàng để thu hồi nợ.

Về án phí: Ông D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết về tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung vụ án: Ngày 29/10/2019, ông Đỗ Trung D ký Hợp đồng tín dụng số 5230LAV201901089 vay Ngân hàng N số tiền 170.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu đồng); thời hạn vay 36 tháng; kỳ hạn trả gốc: 03 kỳ, kỳ 1: ngày 29/10/2020 trả 50.000.000 đồng, kỳ 2: ngày 29/10/2021 trả 60.000.000 đồng, kỳ 3:

ngày 29/10/2022 trả 60.000.000 đồng; lãi suất 12,5%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn. Tài sản đảm bảo cho khoản vay là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 53, địa chỉ thửa đất xã E diện tích 18150m2, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 218721 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 13/8/2009 và tài sản trên đất. Quá trình thực hiện hợp đồng ông D không thực hiện đúng nghĩa vụ của bên vay như cam kết, không trả nợ khi đến hạn. Tính đến ngày 25/8/2021 ông D còn nợ Ngân hàng 211.120.205 đồng (trong đó nợ gốc 170.000.000 đồng, nợ lãi 41.120.205 đồng).

[3.1]. Xét hợp đồng tín dụng số 5230LAV201901089, ngày 29/10/2019 ký kết giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, việc ông Đỗ Trung D không trả nợ cho Ngân hàng là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo hợp đồng tín dụng nên Ngân hàng có quyền yêu cầu bên vay trả toàn bộ số nợ đã vay theo quy định tại Điều 6 Hợp đồng tín dụng. Do đó, cần buộc ông D trả nợ toàn bộ số nợ gốc và nợ lãi theo hợp đồng vay cho Ngân hàng là phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự.

Cụ thể: Tính đến ngày 25/8/2021 ông D còn nợ Ngân hàng 211.120.205 đồng (Trong đó nợ gốc 170.000.000 đồng, nợ lãi 41.120.205 đồng) và tiếp tục trả lãi, phí phát sinh từ ngày 26/8/2021 theo hợp đồng tín dụng số 5230LAV201901089, ngày 29/10/2019 cho đến khi thanh toán xong nợ.

[3.2]. Về tài sản bảo đảm: Để bảo đảm cho khoản vay ông Đỗ Trung D đã ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 241247184/HĐTC ngày 21/3/2019 với Ngân hàng để thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất, thửa đất số 18, tờ bản đồ số 53, địa chỉ thửa đất xã E diện tích 18150m2, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 218721 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 13/8/2009.

Trường hợp ông Đỗ Trung D không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 241247184/HĐTC, ngày 21/3/2019 là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 53, địa chỉ thửa đất xã E diện tích 18150m2, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 218721 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 13/8/2009 và tài sản trên đất.

Trường hợp Ông Đỗ Trung D trả xong nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có trách nhiệm trả lại cho ông Đỗ Trung D bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 218721 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 13/8/2009.

[4]. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu xem xét thẩm định của nguyên đơn là có căn cứ nên bị đơn ông Đỗ Trung D phải chịu 3.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Ngân hàng được nhận lại 3.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định sau khi thu được từ ông Đỗ Trung D.

[5]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bị đơn ông Đỗ Trung D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả. Cụ thể: 211.120.205 đồng x 5% = 10.556.000 đồng.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; Điều 158; điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Áp dụng các Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N.

Buộc ông Đỗ Trung D có trách nhiệm trả cho Ngân hàng N số tiền 211.120.205 đồng (trong đó nợ gốc 170.000.000 đồng, nợ lãi 41.120.205 đồng) và phải chịu lãi suất phát sinh từ ngày 26/5/2021 theo hợp đồng tín dụng số: 5230LAV201901089 ngày 29/10/2019 cho đến khi ông D trả xong nợ.

Khi ông Đỗ Trung D trả xong nợ thì Ngân hàng N có trách nhiệm trả lại cho ông Đỗ Trung D bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 218721 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 13/8/2009 cho ông Đỗ Trung D và bà Bùi Thị G, ngày 08/3/2019 đăng ký biến động chuyển quyền theo bản bản thỏa thuận để quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Trung D.

Trong trường hợp ông Đỗ Trung D không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 241247184/HĐTC ngày 21/3/2019 đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ 53, diện tích 8150 m2 tại xã E, huyện C, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 218721 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 13/8/2009 cho ông Đỗ Trung D và bà Bùi Thị G, ngày 08/3/2019 đăng ký biến động chuyển quyền theo bản bản thỏa thuận để quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Trung D và toàn bộ tài sản trên đất để thu hồi nợ.

Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Đỗ Trung D phải chịu 3.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Ngân hàng N được nhận lại 3.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ sau khi thu được ông Đỗ Trung D.

Về án phí: Ông Đỗ Trung D phải chịu 10.556.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.931.000 đồng theo biên lai thu số AA/2019/0019856 ngày 04/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 53/2021/DS-ST

Số hiệu:53/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về