TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 430/2023/DS-PT NGÀY 31/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 31 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 174/2023/TLPT-DS ngày 4/5/2023 về việc "Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 306/2023/QĐ-PT ngày 30/6/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 303/QĐPT-HPT ngày 12/7/2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP phát triển Thành phố H. Địa chỉ: Số 25 Bis Nguyễn Thị Minh Khai, phường B, quận 1, Thành phố H.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quốc T, Tổng giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Tuấn G (Theo Quyết định số 1906/2022/QĐ-TGĐ ngày 8/8/2022) Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Văn H, ông Lương Hữu B và ông Phạm Ninh H, Trung tâm xử lý nợ miền Bắc (Theo Giấy ủy quyền số 532/2022/GUQ.HDBank ngày 8/9/2022)
2. Bị đơn: Ông Lưu Long Q, sinh năm 1986.
Bà Phạm Thị O, sinh năm 1987.
Cùng trú tại: Số 22A, ngõ 437 Hoàng Tăng Bí, tổ dân phố Tân Nhuệ, phường Thụy P, quận B, Thành phố H.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nông Văn M, sinh năm 1961.
- Bà Trần Thị H H, sinh năm 1968.
- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1940.
- Chị Nông Minh H, sinh năm 1990 Cùng trú tại: Phòng 3411 Tòa A Chung cư Thăng Long Number One, số 289 Khuất Duy Tiến, tổ 24ª, phường Trung Hòa, quận C, Thành phố H.
Do có kháng cáo của ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O là bị đơn; ông Nông Văn M là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:
* Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H (sau đây viết tắt là: HDBank) đã cho ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O vay tiền theo các Hợp đồng tín dụng và các đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ kèm theo, cụ thể như sau:
+ Hợp đồng tín dụng số: 4448/17MB/HĐTD ký ngày 25/09/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4448/17MB/HĐTD/ĐNGN- KUNN/CN/01 ký ngày 28/09/2017; số tiền vay: 500.000.000 đồng; mục đích vay: Vay tiêu dùng có TSBĐ; thời hạn vay: 29/02/2017 – 28/8/2022.
+ Hợp đồng tín dụng số: 4449/17MB/HĐTD ký ngày 25/09/2017; đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4449/17MB/HĐTD/ĐNGN- KUNN/CN/01 ký ngày 28/09/2017; số tiền vay: 400.000.000 đồng; mục đích vay: Sửa chữa nhà tại địa chỉ 22A, đường Hoàng Tăng Bí, phường Thụy P, quận B, Thành phố H; thời hạn vay: 29/9/2017 – 28/9/2027.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay trên là: Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 115 tờ bản đồ số 20, phường Thụy P, quận B, Thành phố H. Theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số CI 194618, số vào sổ cấp GCN: CS-BTL: 06049 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 12/05/2007, được đăng ký thay đổi chủ sở hữu ngày 28/06/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H – Chi nhánh quận B cho ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O. Theo “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất” số công chứng: 03079.2017/CCHH/HĐTC, quyền số 10 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng H Hà, Thành phố H ngày 25/09/2017; được đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 27/9/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H – Chi nhánh quận B;
Trong quá trình thực hiện các Hợp đồng tín dụng, ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O đã thanh toán cho HDBank tổng số tiền là: 172.872.809 đồng, trong đó: Nợ gốc là 104.938.067 đồng, nợ lãi trong hạn là 67.513.103 đồng, nợ lãi quá hạn là: 421.639 đồng.
Do ông Q và bà O vi phạm cam kết thanh toán khoản nợ, HDBank đã nhiều lần làm việc, gửi thông báo đề nghị ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O thanh toán khoản nợ theo nội dung cam kết nhưng ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O không thực hiện theo yêu cầu của HDBank. Đến nay ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O không thanh toán dứt điểm khoản nợ, gây nợ xấu cho HDBank. Tạm tính đến ngày 18/9/2020, dư nợ khoản vay của ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O tại HDBank cụ thể như sau: Nợ gốc: 795.061.933 đồng; nợ lãi trong hạn: 178.790.627 đồng; nợ lãi quá hạn: 83.703.022 đồng. Tổng nợ: 1.057.555.582 đồng HDBank khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
+ Buộc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải thanh toán ngay toàn bộ nợ cho HDBank với tổng số tiền là: 1.057.555.582 đồng, trong đó: Nợ gốc là: 795.061.933 đồng; nợ lãi trong hạn là: 178.790.627 đồng và nợ lãi quá hạn: 83.703.022 đồng (số liệu tạm tính đến ngày 18/9/2020);
Buộc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải thanh toán nợ lãi phát sinh đối với số nợ còn lại theo quy định của các Hợp đồng tín dụng và các đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ đã ký kết với HDBank kể từ ngày 19/09/2020 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ;
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật mà ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên và lãi phát sinh thì HDBank có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án tiến hành kê biên, phát mại tài sản bảo đảm của khoản vay nói trên để thu hồi nợ cho Ngân hàng, tài sản bảo đảm là: Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số: 115; tờ bản đồ số: 20; địa chỉ: Phường Thụy P, quận B, thành phố H, theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số CI 194618, số vào sổ cấp GCN: CS-BTL: 06049 do Sở tài nguyên và môi trường thành phố H cấp ngày 12/05/2007, được đăng ký thay đổi chủ sở hữu ngày 28/06/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H – Chi nhánh quận B cho ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O.
Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của cho ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O đối với HDBank, sau khi trừ đi các chi phí phát sinh trong quá trình khởi kiện và xử lý tài sản. Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ bằng nguồn thu và tài sản hợp pháp khác.
* Bị đơn ông Lưu Long Q trình bày:
Ngày 25/9/2017 ông và vợ là Phạm Thị O có ký Hợp đồng tín dụng số 4448 với HDBank để vay 500.000.000 đồng để tiêu dùng và ký hợp đồng tín dụng số 4449 để vay 400.000.000 đồng để sửa chữa nhà. Ông và bà O đã được HDBank giải ngân với số tiền là 900.000.000 đồng thời gian vay và lãi suất vay theo 2 hợp đồng là đúng. Quá trình vay, vợ chồng ông có thế chấp tài sản là nhà đất tại số 115 tờ bản đồ 20, tại phường Thụy P, B, đã được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất mang tên bà Trần Thị H H đã được đăng ký sang tên ông và vợ là Phạm Thị O ngày 28/6/2017.
Sau khi vay, đến ngày 18/9/2020 vợ chồng ông đã trả được 172.872.809 đồng trong đó nợ gốc là 104.938.067 đồng.
Do quá trình làm ăn gặp khó khăn nên vợ chồng ông chưa thực hiện đúng cam kết hai hợp đồng tín dụng trên. Nay HDBank khởi kiện, ông đề nghị HDBank tạo điều kiện cho vợ chồng ông có điều kiện được trả nợ dần là 9 tháng. Ngoài ra ông không đề nghị Tòa án giải quyết việc gì khác.
Bị đơn bà Phạm Thị O cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là: ông Nông Văn M, bà Trần Thị H H, bà Nguyễn Thị L và chị Nông Minh H:
Quá trình giải quyết vụ án các đương sự đã không chấp hành nghĩa vụ tố tụng trong vụ án. Không đến Tòa án để đưa ra ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án nên đã từ chối các quyền lợi tố tụng của mình.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H đối với ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O về khoản nợ gốc và nợ lãi theo Hợp đồng tín dụng số 4448/17MB/HĐTD ký ngày 25/09/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4448/17MB/HĐTD/ĐNGN-KUNN/CN/01 ký ngày 28/09/2017 và Hợp đồng tín dụng số: 4449/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4449/17MB/HĐTD/ĐNGN-KUNN/CN/01 ký ngày 28/9/2017.
2. Xác nhận số tiền ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H số tiền nợ gốc:
795.061.932 đồng, tiền nợ lãi trong hạn là: 259.834.525 đồng, tiền lãi quá hạn là: 280.436.722 đồng. Buộc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển thành phố H tổng số tiền là: 1.335.430.179 đồng.
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật mà ông Lưu Long Q, bà Phạm Thị O không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản tiền nêu trên thì Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành kê biên phát mại tài sản bảo đảm của khoản vay nói trên để thu hồi nợ là toàn bộ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất 115; tờ bản đồ số: 20; địa chỉ: Phường Thụy P, quận B, Thành phố H, theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số CI 194618, số vào sổ cấp GCN: CS-BTL: 06049 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 12/05/2007, được đăng ký thay đổi chủ sở hữu ngày 28/06/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H – Chi nhánh quận B cho ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O theo “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất” số công chứng:
03079.2017/CCHH/HĐTC, quyền số 10 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng H Hà, Thành phố H ngày 25/09/2017; được đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 27/09/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H – Chi nhánh quận B.
Nếu sau khi phát mại tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp nêu trên mà số tiền vẫn không đủ trả nợ thì buộc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H cho đến khi trả hết các khoản nợ.
Kể từ ngày 30/9/2022 người phải thi hành án tiếp tục chịu lãi suất đối với khoản nợ gốc theo mức thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng tương ứng với thời gian chậm trả cho đến khi trả xong nợ gốc.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, mức lãi suất được xác định tại các hợp đồng tín dụng số: 4448/17MB/HĐTD ngày 25/9/2017 và số 4449/17MB/HĐTD ngày 25/9/2017 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Không chấp nhận các yêu cầu khác của các đương sự.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn ông Lưu Long Q, bà Phạm Thị O; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nông Văn M cáo đối với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa:
Bị đơn ông Lưu Long Q trình bày: Vợ chồng ông có ký hợp đồng tín dụng để vay tiền như ngân hàng trình bày. Do làm ăn khó khăn nên vợ chồng ông không thanh toán được cho ngân hàng như thỏa thuận tại hợp đồng.
Vợ chồng ông kháng cáo đề nghị HĐXX và ngân hàng xem xét miễn giảm lãi để vợ chồng ông có điều kiện thanh toán cho ngân hàng.
Nguyên đơn ngân hàng đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn bà Phạm Thị O và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nông Văn M, bà Trần Thị H H, bà Nguyễn Thị L, chị Nông Minh H vắng mặt tại phiên tòa.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của BLTTDS.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố H đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 1 Điều 308 BLTTDS giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H.
Đình chỉ yêu cầu kháng cáo của ông Nông Văn M.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Lưu Long Q, bà Phạm Thị O; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nông Văn M nộp trong hạn luật định, ông Q bà O đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.
Về tố tụng: Theo ông Q, bà O đã nhận được Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vì lý do công việc nên không có mặt tại phiên tòa, bà O xin được xét xử vắng mặt.
Ông Nông Văn M đã được tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên bị coi là từ bỏ kháng cáo, HĐXX xét xử theo quy định tại Điều 296 BLTTDS và đình chỉ yêu cầu kháng cáo của ông M.
Về nội dung:
Hợp đồng tín dụng số 4448/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4448/17MB/HĐTD/ĐNGN- KUNN/CN/01 ký ngày 28/9/2017 và Hợp đồng tín dụng số:
4449/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4449/17MB/HĐTD/ĐNGN-KUNN/CN/01 ký ngày 28/9/2017 giữa HDBank và ông Q, bà O được ký kết trên cơ sở tự nguyện. Hợp đồng tín dụng và các khế ước nhận nợ có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của BLDS và Luật các tổ chức tín dụng nên có hiệu lực đối với các bên.
- Theo Hợp đồng tín dụng số 4448/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4448/17MB/HĐTD/ĐNGN- KUNN/CN/01 ký ngày 28/9/2017: Ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O vay của HDBank số tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng và Hợp đồng tín dụng số: 4449/17MB/HĐTD ký ngày 25/09/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4449/17MB/HĐTD/ĐNGN-KUNN/CN/01 ký ngày 28/9/2017:
Ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O vay của HDBank số tiền nợ gốc là 400.000.000 đồng.
Như vậy tổng số tiền nợ gốc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O vay của HDBank theo hai hợp đồng tín dụng nêu trên là 900.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng ông Q, bà O đã trả được tổng số tiền là:
181.433.213 đồng, trong đó: Nợ gốc là 104.938.068 đồng, nợ lãi trong hạn là 76.073.506 đồng, nợ lãi quá hạn là: 421.639 đồng. Xét thấy ông Q và bà O đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng các bên đã ký kết. Vì vậy HDBank khởi kiện yêu cầu ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O thanh toán số tiền nợ gốc 795.061.932 đồng mà ông Q, bà O chưa thanh toán cho HDBank là có căn cứ, nên chấp nhận.
Đối với yêu cầu thanh toán tiền lãi:
HDBank yêu cầu ông Q và bà O thanh toán số tiền lãi là 540.268.248 đồng, trong đó lãi trong hạn là 259.831.525 đồng, lãi quá hạn là 280.436.723 đồng. Xét thấy: Khi ký kết các hợp đồng tín dụng, các khế ước nhận nợ nêu trên, hai bên đã thỏa thuận thời hạn vay, lãi suất vay, lãi suất quá hạn và mức lãi suất. Sự thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định của pháp luật. Ngày 01/6/2018 ông Q và bà O vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc theo hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ số 4449 và hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ số 4448 nên HDBank chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn là đúng với thỏa thuận của hợp đồng.
Bản án sơ thẩm buộc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải thanh toán trả nguyên đơn số tiền nợ gốc và nợ phát sinh trong hợp đồng tín dụng đã giao kết là đúng quy định.
Tính đến ngày 29/9/2022 ông Q và bà O phải thanh toán cho HDBank số tiền là: 1.335.330.180 đồng (trong đó số tiền nợ gốc: 795.061.932 đồng, tiền nợ lãi trong hạn là: 259.831.525 đồng, tiền lãi quá hạn là:
280.436.723 đồng). Cụ thể : Hợp đồng tín dụng số 4448/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017 nợ gốc là 424.761.932 đồng, nợ lãi trong hạn 109.547.401đồng, lãi quá hạn 182.367.691 đồng; Hợp đồng tín dụng số: 4449/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017 nợ gốc 370.300.000 đồng, nợ lãi trong hạn 150.284.124 đồng, nợ lãi quá hạn 98.069.032 đồng.
Về yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của HDBank:
Theo hợp đồng thế chấp giữa các bên, tài sản bảo đảm cho khoản vay của ông Q, bà O tại HDBank là: Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất 115, tờ bản đồ số 20; địa chỉ: Phường Thụy P, quận B, Thành phố H, theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số CI 194618, số vào sổ cấp GCN: CS-BTL: 06049 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 12/5/2007, được đăng ký thay đổi chủ sở hữu ngày 28/6/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H – Chi nhánh quận B cho ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O.
Qua xem xét thẩm định tại chỗ nhận thấy trên đất thế chấp có 15,5m2 nhà bê tông; 9,8m2 nhà gạch; 23,2m2 nhà gạch do ông Q bà O đang sử dụng. Tại điểm 2 Điều 8 của Hợp đồng thế chấp các bên thỏa thuận ngân hàng được quyền xử lý tất cả các tài sản gắn liền với TSTC kể cả tài sản được hình thành sau khi ký hợp đồng này để thu nợ.
Ngày 25/9/2017 ông Q bà O ký cam kết với ngân hàng, theo đó ông Q bà O xác định tài sản thế chấp là toàn bộ diện tích đất, diện tích xây dựng trên đất để bảo đảm cho khoản vay.
Hợp đồng thế chấp tài sản đã ký kết giữa các bên đều được các bên tự nguyện tham gia. Tài sản dùng thế chấp ông Q, bà O đã nhận chuyển nhượng hợp pháp từ bà Trần Thị H H và sử dụng ổn định trong thời gian dài, không có tranh chấp nên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người thế chấp. Hợp đồng thế chấp được đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp ông Q, bà O không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán theo Bản án của Tòa án, ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản thế chấp nêu trên. Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán, xử lý tài sản bảo đảm nêu trên được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của ông Q, bà O đối với HDBank. Trường hợp số tiền thu được từ bán, xử lý tài sản bản đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông Q, bà O vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ gốc, lãi cho HDBank đến khi trả hết khoản nợ phát sinh từ các hợp đồng tín dụng và các khế ước nhận nợ được ký kết giữa các bên nêu trên.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phù hợp với nhận định của HĐXX.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Q bà O Đình chỉ yêu cầu kháng cáo của ông M
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận ông Q bà O mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Ông M là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm. Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải chịu 52.062.905 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H số tiền 21.860.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 BLTTDS giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 280, 282, 463, 466 Bộ luật dân sự 2015;
- Khoản 2 Điều 91; Khoản 2 Điều 95; Khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng;
- Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H đối với ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O về khoản nợ gốc và nợ lãi theo Hợp đồng tín dụng số 4448/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4448/17MB/HĐTD/ĐNGN-KUNN/CN/01 ký ngày 28/9/2017 và Hợp đồng tín dụng số: 4449/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số: 4449/17MB/HĐTD/ĐNGN-KUNN/CN/01 ký ngày 28/9/2017.
2. Xác nhận số tiền ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H số tiền nợ gốc:
795.061.932 đồng, tiền nợ lãi trong hạn là: 259.831.525 đồng, tiền lãi quá hạn là: 280.436.723 đồng. Buộc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H tổng số tiền là: 1.335.330.180 đồng. Cụ thể : Hợp đồng tín dụng số 4448/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017 nợ gốc là 424.761.932 đồng, nợ lãi trong hạn 109.547.401đồng, lãi quá hạn 182.367.691 đồng; Hợp đồng tín dụng số:
4449/17MB/HĐTD ký ngày 25/9/2017 nợ gốc 370.300.000 đồng, nợ lãi trong hạn 150.284.124 đồng, nợ lãi quá hạn 98.069.032 đồng.
Kể từ ngày 30/9/2022 người phải thi hành án tiếp tục chịu lãi suất đối với khoản nợ gốc theo mức thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng tương ứng với thời gian chậm trả cho đến khi trả xong nợ gốc.
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật mà ông Lưu Long Q, bà Phạm Thị O không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản tiền nêu trên thì Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành kê biên phát mại tài sản bảo đảm của khoản vay nói trên để thu hồi nợ là toàn bộ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất 115, tờ bản đồ số 20; địa chỉ: Phường Thụy P, quận B, Thành phố H, theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số CI 194618, số vào sổ cấp GCN: CS-BTL: 06049 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 12/5/2007, được đăng ký thay đổi chủ sở hữu ngày 28/6/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H – Chi nhánh quận B cho ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O theo “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất” số công chứng:
03079.2017/CCHH/HĐTC, quyền số 10 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng H Hà, Thành phố H ngày 25/09/2017; được đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 27/09/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai H, Chi nhánh quận B.
Nếu sau khi phát mại tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp nêu trên mà số tiền vẫn không đủ trả nợ thì buộc ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H cho đến khi trả hết các khoản nợ.
Đình chỉ yêu cầu kháng cáo của ông M.
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Q bà O mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm đối trừ vào Biên lai thu dự phí kháng cáo số 0043496; 0043495 ngày 17/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố H.
Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Lưu Long Q và bà Phạm Thị O phải chịu 52.062.905 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố H số tiền 21.860.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo Biên lai số AB/2015/0004189 ngày 01/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố H.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 430/2023/DS-PT
Số hiệu: | 430/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về