Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 30/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 30/2022/DS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 262/2021/TLST-DS, ngày 08 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXXST- DS, ngày 05 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 25 tháng 4 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng H; địa chỉ: phường T, quận G, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quốc C – Chủ tịch hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn T – Phó giám đốc Ngân hàng H - Chi nhánh Đắk Lắk. Địa chỉ: phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Người được ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Vũ Quang V – Trưởng phòng giao dịch số 01, Ngân hàng H – Chi nhánh Đắk Lắk; địa chỉ: thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Dương Thị T1, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Nơi làm việc: Trường mẫu giáo S – xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Ngô Đình T2, sinh năm 1990 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa người đại diện ủy quyền tham gia tố tụng cho nguyên đơn ông Vũ Quang V trình bày:

Ngày 17/9/2015 Phòng giao dịch số 01 – Ngân hàng H – Chi nhánh Đắk Lắk cho bà Dương Thị T1 vay vốn theo hợp đồng tín dụng số TD52700029 số tiền vay 80.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng (phương thức trả gốc, lãi vào ngày 17 hàng tháng kể từ ngày 17/10/2015 đến ngày trả nợ cuối cùng ngày 17/9/2020; số tiền trả nợ mỗi kỳ cụ thể: trả gốc 1.340.000 đồng, kỳ cuối cùng là 940.000 đồng, lãi trả cùng với nợ gốc, được tính theo phương thức tích số), lãi suất trong hạn là 0,95%/tháng, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Mục đích vay vốn là Tiêu dùng gia đình.

Trước khi vay vốn thì ngày 11/9/2015 vợ chồng bà Dương Thị T1, ông Ngô Đình T2 có đơn xin vay và cam kết trả nợ gửi Ngân hàng H, Chi nhánh Đắk Lắk, Phòng giao dịch số 01, xác định mục đích vay tiền để sử dụng chi tiêu trong gia đình và cam kết nghĩa vụ trả nợ của hai vợ chồng.

Sau khi vay vốn tính đến ngày 25/11/2021 gia đình bà T1 mới trả được cho Ngân hàng số tiền 28.520.000 đồng tiền gốc và 24.392.700 đồng tiền lãi trong hạn. Đến nay khoản nợ của bà T1 đã quá hạn, Ngân hàng đã đến nhà làm việc nhiều lần yêu cầu trả nợ nhưng bà T1 vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng là vi phạm hợp đồng. Tính đến ngày 25/11/2021 bà T1 còn nợ 72.728.900 đồng, trong đó nợ gốc 51.480.000 đồng, lãi trong hạn 10.656.500 đồng, lãi quá hạn 10.592.400 đồng.

Quá trình Tòa án giải quyết bà T1 đã trả cho Ngân hàng được 9.000.000 đồng tiền gốc vào ngày 23/12/2021 (trả 5.000.000 đồng) và ngày 21/3/2022 (trả 4.000.000 đồng). Tại phiên tòa sơ thẩm, Ngân hàng xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 9.000.000 đồng nợ gốc đã trả nêu trên.

Số nợ còn lại tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 13/5/2022) bà T1 còn nợ Ngân hàng số tiền 67.427.700 đồng, trong đó nợ gốc 42.480.000 đồng, lãi trong hạn 10.656.500 đồng, lãi quá hạn 14.291.200 đồng.

Do khoản nợ trên bà T1 vay về với mục đích tiêu dùng trong gia đình, ông Ngô Đình T2 là chồng cũng cam kết trả nợ. Vì vậy, Ngân hàng H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 phải thanh toán số tiền nợ gốc, lãi tính đến ngày 13/5/2022 là 67.427.700 đồng, trong đó nợ gốc 42.480.000 đồng, lãi trong hạn 10.656.500 đồng, lãi quá hạn 14.291.200 đồng và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi kể từ ngày 14/5/2022 đối với khoản nợ gốc cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng H theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết.

* Bị đơn bà Dương Thị T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Đình T2 cố tình lẩn tránh, Tòa án đã niêm yết các thủ tục tố tụng theo quy định nhưng bà T1, ông T2 vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc phát biểu ý kiến như sau:

Về tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã giải quyết đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa HĐXX, thư ký và nguyên đơn đã chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Bị đơn bà Dương Thị T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Đình T2 không chấp hành tốt các quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228; khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự 2005; Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng H.

Buộc bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng H số tiền 67.427.700 đồng, trong đó nợ gốc 42.480.000 đồng, lãi trong hạn 10.656.500 đồng, lãi quá hạn 14.291.200 đồng, tính đến ngày 13/5/2022.

Kể từ ngày 14/5/2022 bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng H về việc buộc bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 phải trả số tiền 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) nợ gốc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các bên đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là Tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bị đơn có nơi cư trú tại huyện K, tỉnh Đắk Lắk và nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc giải quyết. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn bà Dương Thị T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Đình T2 vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T1, ông T2.

[2] Về nội dung: Ngày 17/9/2015 bà Dương Thị T1 có ký với Ngân hàng hợp đồng tín dụng số TD52700029 vay số tiền 80.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng (phương thức trả gốc, lãi vào ngày 17 hàng tháng kể từ ngày 17/10/2015 đến ngày trả nợ cuối cùng ngày 17/9/2020; số tiền trả nợ mỗi kỳ cụ thể: trả gốc 1.340.000 đồng, kỳ cuối cùng là 940.000 đồng, lãi trả cùng với nợ gốc, được tính theo phương thức tích số), lãi suất trong hạn là 0,95%/tháng, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Hợp đồng tín dụng ký kết giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 91 Luật tổ chức tín dụng. Quá trình thực hiện hợp đồng bà T1 đã trả được cho Ngân hàng 37.520.000 đồng tiền gốc và 24.392.700 đồng tiền lãi trong hạn, sau đó không trả thêm được khoản tiền nào khác. Tính đến ngày 13/5/2022 bà T1 còn nợ số tiền 67.427.700 đồng, trong đó nợ gốc 42.480.000 đồng, nợ lãi trong hạn 10.656.500 đồng, lãi quá hạn 14.291.200 đồng. Nay đã quá hạn trả nợ nhưng bà T1 không thực hiện trả nợ theo thỏa thuận là vi phạm Điều 5 Hợp đồng tín dụng, khoản 1 Điều 474 Bộ luật dân sự 2005.

Về nghĩa vụ liên đới trả nợ: Trước khi vay vốn thì ngày 11/9/2015 vợ chồng bà Dương Thị T1, ông Ngô Đình T2 có đơn xin vay và cam kết trả nợ gửi Ngân hàng H, Chi nhánh Đắk Lắk, Phòng giao dịch số 01, xác định mục đích vay tiền để sử dụng chi tiêu trong gia đình và cam kết nghĩa vụ trả nợ của hai vợ chồng. Vì vậy, cần buộc ông Ngô Đình T2 có nghĩa vụ liên đới cùng bà Dương Thị T1 trả nợ cho Ngân hàng là phù hợp với quy định của pháp luật theo Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ, nên cần buộc bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng H số tiền 67.427.700 đồng, trong đó nợ gốc 42.480.000 đồng, nợ lãi trong hạn 10.656.500 đồng, lãi quá hạn 14.291.200 đồng, tính đến ngày 13/5/2022. Kể từ ngày 14/5/2022 bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

[3] Tại phiên tòa, nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 phải trả số tiền 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) nợ gốc. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng H. Ngân hàng H được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Dương Thị T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Đình T2 phải chịu 67.427.700 đồng x 5% = 3.371.385 đồng (Làm tròn 3.371.000 đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự 2005; Điều 688 Bộ luật dân sự 2015;

Áp dụng khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Áp dụng Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng H.

Buộc bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng H số tiền 67.427.700 đồng (Sáu mươi bảy triệu, bốn trăm hai mươi bảy nghìn, bảy trăm đồng), trong đó nợ gốc 42.480.000 đồng, nợ lãi trong hạn 10.656.500 đồng, lãi quá hạn 14.291.200 đồng, tính đến ngày 13/5/2022.

Kể từ ngày 14/5/2022 bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng H về việc buộc bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 phải trả số tiền 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) nợ gốc. Ngân hàng H được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà Dương Thị T1 và ông Ngô Đình T2 phải chịu 3.371.000 đồng (Ba triệu, ba trăm bảy mươi mốt nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trả cho Ngân hàng H 1.818.000 đồng (Một triệu, tám trăm mười tám nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 60AA/2021/0006699 ngày 03/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

3. Thông báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 30/2022/DS-ST

Số hiệu:30/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về