TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 29/2024/KDTM-PT NGÀY 01/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong các ngày 31/ 01 và 01/02//2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 311/2023/KDTM - PT ngày 19/12/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 37/2023/KDTM-ST ngày 22/8/2023 của Toà án nhân dân quận C, thành phố H bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 04/2024/QĐXXPT-KDTM ngày 02/01/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2024/QĐPT-KDTM ngày 19/01/2024 giữa:
Nguyên đơn: Ngân hàng N. Địa chỉ: Số 2 Láng Hạ, phường Thành Công, quận B, thành phố H
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V - Tổng Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trung H - Trưởng phòng Khách hàng hộ sản xuất và cá nhân Chi nhánh H II
Bị đơn: Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M.
Địa chỉ: Số 192 đường Nguyễn Trãi, tổ 18 phường T, quận T, thành phố H.
Đại diện hộ kinh doanh: Bà Lê Thị Ngọc M, sinh 1974. Cư trú: Số 13/3 tòa A4 làng Quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, quận C, thành phố H
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Ông Vũ Duy H, sinh 1971; bà Lê Thị Ngọc M, sinh 1974. HKTT: Phùng Khoang, xã Trung Văn, huyện T (nay là phường Trung Văn, quận N), thành phố H.
Cư trú tại: Số 13/3 tòa A4 làng Quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, quận C, thành phố H
Bà Nguyễn Thị V, sinh 1944. Cư trú: Thôn Nguyên Xá, xã Phương Tú, huyện H, thành phố H
Ông Phan Trọng M, sinh 1966. HKTT: Thôn Yên Trường, xã Trường Thịnh, huyện H, thành phố H. Tạm trú: Số 102 E9 Tập thể T, phường T, quận T, thành phố H
Bà Lê Thị N, sinh 1966. HKTT: Thôn Yên Trường, xã Trường Thịnh, huyện H, thành phố H. Cư trú: Số 3 ngõ 3 phố Cầu Đơ 1, phường Hà Cầu, quận Đ, thành phố H
Anh Phan Công T, sinh 1991. Cư trú: Số 3 ngõ 3 phố Cầu Đơ 1, phường Hà Cầu, quận Đ, thành phố H (Nguyên đơn, bà N, ông M có mặt;
Bị đơn và những người liên quan khác vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 27/7/2013 Abank Chi nhánh H - PGD số 8 (nay là Abank - Chi nhánh H II - Gọi tắt là Abank) đã ký kết hợp đồng tín dụng số 2200LAV201301713 với Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M (Bà Lê Thị Ngọc M làm đại diện hộ - Gọi tắt là Hộ bà M). Nội dung hợp đồng thể hiện việc các bên thống nhất chuyển toàn bộ dư nợ của Hợp đồng tín dụng ký ngay 24/7/2012 được chuyển sang theo dõi tại Hợp đồng tín dụng số 2200LAV201301713 ký ngày 25/7/2013 với hạn mức tín dụng là: 2.000.000.000 đồng. Lãi suất cho vay là 11,5%/năm. Lãi suất sẽ điều chỉnh 03 tháng/lần. Phương thức trả lãi tiền vay là 06 tháng một lần. Thời hạn cho vay là 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng.
Mục đích sử dụng là để kinh doanh đồ gỗ.
Tài sản thể chấp cho hai khoản vay trên bao gồm 02 tài sản là:
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 193, tờ bản đồ số 04, diện tích: 265m2, địa chỉ tại thôn Nguyên Xá, xã Phương Tú, huyện H, tỉnh H (nay là huyện H, thành phố H) của hộ bà Nguyễn Thị V.
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 846, tờ bản đồ số 04, diện tích 150m2, địa chỉ tại xã Trường Thịnh, huyện H, tỉnh H (nay là huyện H, thành phố H) đứng tên hộ là ông Phan Trọng M.
Thực hiện hợp đồng tín dụng, Abank đã giải ngân cho bị đơn vay tổng số tiền 2.000.000.000đồng theo 05 khế ước nhận nợ.
Bà M đã trả cho Abank số tiền 92.247.222 đồng trong đó trả được nợ gốc là: 51.900.000 đồng, nợ lãi trong hạn là: 40.347.222 đồng.
Sau đó vi phạm Hợp đồng từ ngày 10/02/2015. Tính đến hết ngày xét xử 22/8/2023, Hộ bà M còn nợ số tiền nợ gốc: 1.948.100.000 đồng; số tiền lãi nợ lãi trong hạn: 2.374.359.778 đồng; số tiền lãi nợ lãi quá hạn: 992.842.046 đồng.
Quá trình tiến hành tố tụng, Abank đề nghị thay đổi người bị kiện từ bà Lê Thị Ngọc M sang hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M. Abank xác định tại thời điểm cấp tín dụng cho bà Lê Thị Ngọc M, bên vay vốn là Hộ bà M gồm 02 thành viên là bà Lê Thị Ngọc M và chồng là ông Vũ Duy H, đại diện cho hộ là bà Lê Thị Ngọc M nên trong các hợp đồng tín dụng và Giấy nhận nợ chỉ có mình bà Lê Thị Ngọc M ký với tư cách là người đại diện của Hộ bà M. Cơ sở để Abank khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận C vì tại thời điểm khởi kiện hộ kinh doanh không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh, bà M đã về cư trú sinh sống tại quận C, thành phố H. Abank đề nghị Hộ bà M gồm bà M và chồng là ông H phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết tại hợp đồng tín dụng và các giấy nhận nợ đã ký nhưng Hộ bà M không thực hiện.
Abank khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc Hộ bà M phải trả nợ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 2200LAV201301713 đến ngày xét xử là: 5.315.301.824 đồng. Trong đó: Số tiền gốc: 1.948.100.000 đồng. Số tiền nợ lãi:3.367.201.824đồng (lãi trong hạn 2.374.359.778đồng, lãi quá hạn 992.842.046đồng) cùng khoản tiền lãi phát sinh theo hợp đồng. Trường hợp Hộ bà M không trả được nợ đề nghị được xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Số tiền thu về từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Abank thì Hộ bà M có nghĩa vụ liên đới tiếp tục trả nợ cho Abank.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Abank rút một phần yêu cầu khởi kiện, không đề nghị Tòa án tuyên xử lý tài sản thế chấp của hộ bà Nguyễn Thị V là quyền sử dụng thửa đất số 193, tờ bản đồ số 4; địa chỉ: xã Phương Tú, huyện H, tỉnh H (nay là thành phố H).
* Bị đơn Hộ kinh doanh bà Lê Thị Ngọc M: Thừa nhận việc ký kết Hợp đồng tín dụng và đã được giải ngân cho vay đủ số tiền theo hợp đồng.
Bà M xác nhận có dùng 02 tài sản nhà đất thể chấp cho Abank. Bà M đề nghị Abank tạo điều kiện cho bà thời gian để thu xếp nguồn tiền trả toàn bộ nợ gốc cho Abank và xin miễn một phần tiền nợ lãi.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Trọng M, bà Lê Thị N: Thừa nhận việc ký kết hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất đứng tên hộ là ông Phan Trọng M để bảo đảm cho nghĩa vụ của Hộ bà M với số tiền gốc tối đa là: 2.000.000.000đồng.
Hiện nay trên tài sản thế chấp có những người đang sinh sống gồm: bà N, ông M, anh T. Cụ Nguyễn Thị V không có hộ khẩu nhưng chuyển ra sống tại nhà đất thế chấp của gia đình ông bà để tiện chăm sóc.
Với tư cách là người bảo lãnh cho khoản vay ông bà đề nghị Abank tạo điều kiện cho gia đình thu xếp khoản tiền trả nợ. Gia đình sẽ cố gắng cùng với bà M trả nợ gốc cho Abank và xin miễn một phần nợ lãi.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Vũ Duy H, bà Nguyễn Thị V, anh Phan Công T không có lời trình bày tại Tòa án.
Bản án kinh doanh sơ thẩm số 37/2023/DS-ST ngày 22/8/2023 của Toà án nhân dân quận C xét xử đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N đối với hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M.
Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N về việc đề nghị xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 193, tờ bản đồ số 4; địa chỉ: xã Phương Tú, huyện H, tỉnh H (nay là thành phố H) cấp cho hộ bà Nguyễn Thị V theo Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba ký ngày 06/11/2012 giữa Ngân hàng N - chi nhánh H và hộ bà Nguyễn Thị V.
Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M gồm chủ hộ là bà Lê Thị Ngọc M và thành viên là ông Vũ Duy H có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng N số tiền nợ gốc là 1.948.100.000 đồng; nợ lãi trong hạn và nợ lãi quá hạn tạm tính đến ngày xét xử 22/8/2023 là 3.367.201.824 đồng. Tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi tính đến ngày xét xử hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N là 5.315.301.824 đồng xuất phát từ Hợp đồng tín dụng số 2200-004566739 ngày 24/7/2012 giữa Ngân hàng nông nghiệp và phát triên nông thôn chi nhánh H - thành phố H, Hợp đồng tín dụng số 2200- LAV 201301713 ngày 25/7/2013 được ký kết giữa Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn H, thành phố H - phòng giao dịch số 08 với bà Lê Thị Ngọc M cùng 05 Giấy nhận nợ vào các ngày 13/3/2013, 05/6/2013, 13/6/2013, 18/7/2013 và 05/8/2013 có chữ ký xác nhận của bà Lê Thị Ngọc M.
Nếu hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M gồm bà Lê Thị Ngọc M, ông Vũ Duy H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ liên đới thanh toán toàn bộ số tiền nêu trên cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thực hiện kê biên, phát mại tài sản thê chấp gồm Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 846, tờ bản đồ số 04, địa chỉ: xã Trường Thịnh, huyện H, thành phố H, diện tích 150m2 đất, trên đất có tài sản là 01 nhà ở cấp 3, diện tích xây dựng 200m2, cấp cho hộ ông Phan Trọng M theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE262298 được UBND huyện H cấp ngày 08/02/2007. Căn cứ theo Hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba (gắn liền với quyền sử dụng đất) ký ngày 13/5/2011 giữa Ngân hàng N chi nhánh H với hộ ông Phan Trọng M, bà Lê Thị N, anh Phan Công T tại Văn phòng công chứng miền Bắc, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất H ngày 07/11/2012.
Ông Phan Trọng M, bà Lê Thị N, anh Phan Công T, bà Nguyễn Thị V hay bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cư trú, sử dụng nhà đất nêu trên sau thời điểm xét xử phải có nghĩa vụ bàn giao tài sản thế chấp khi thực hiện kê biên, phát mại tài sản thế chấp theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
Nếu số tiền thu về từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân hàng N thì Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M bao gồm các thành viên là bà Lê Thị Ngọc M, ông Vũ Duy H tiếp tục có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng V cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi phát sinh đến ngày thanh toán.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Không đồng ý với bản án sơ thẩm bà Lê Thị Ngọc M, bà Lê Thị N có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ngân hàng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người kháng cáo bà Lê Thị Ngọc M - Đại diện Hộ bà M vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Bà N thay đổi yêu cầu kháng cáo chỉ đề nghị Abank xem xét giảm tiền lãi, đề xuất được trả thay toàn bộ gốc và một phần lãi, tổng cộng là 2,5 tỷ đồng trong thời hạn 1 năm, bắt đầu trả từ tháng 3/2024, khi trả hết số tiền trên thì Ngân hàng trả lại số đỏ và giải chấp tài sản. Abank không chấp nhận phương án do bà N đề xuất chỉ chấp nhận trả sổ đỏ và giải chấp tài sản khi bà N, ông M trả Ngân hàng số tiền gốc và lãi có tổng cộng là 3,2 tỷ đồng trong thời hạn 3 thansng kể từ tháng 2/2024.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H trình bày quan điểm và đề xuất hướng giải quyết vụ án có nội dung chính: Tại phiên tòa HĐXX đã thực hiện đúng quy định và yêu cầu chung của phiên tòa phúc thẩm: Thành phần HĐXX phúc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm đúng quy định tại Điều 64 và Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự. Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 51 BLTTDS. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tại phiên tòa, các đương sự đã được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các diều 70,71,72, 73 và 74 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung kháng cáo: Kháng cáo của Hộ bà M và bà N là hợp lệ. Bà M vắng nặt lần thứ hai tại phiên tòa coi là đã từ bỏ kháng cáo. Đề nghị HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà M.
Bà N kháng cáo toàn bộ bản án nhưng tại phiên tòa phúc thẩm chỉ đề nghị được trả một phần nợ lãi cùng toàn bộ nợ gốc.
Hợp đồng tín dụng giữa Abank và Hộ bà M ký kết đúng thẩm quyền và hợp pháp. Do Hộ bà M không trả được nợ nên Ngân hàng khởi kiện đòi toàn bộ nợ gốc là có căn cứ. Đối với nợ lãi: Lãi suất các bên thỏa thuận điều chỉnh 3 tháng/lần. Tòa án sơ thẩm không yêu cầu Abank xuất trình quyết định điều chỉnh lãi suất và bảng kê tính lãi đã quyết định buộc Bị đơn trả nợ lãi là chưa đủ căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm Abank đã cung cấp bảng kê để bóc tách phần nợ lãi trong hạn và quá hạn. Đối với Hợp đồng thế chấp tài sản của hộ ông M, bà N: được ký kết đúng thẩm quyền, nội dung không trái với quy định của pháp luật nên có hiệu lực thi hành. Trường hợp Hộ bà M không trả được nợ thì Abank có quyền yêu cầu xử lý tài sản để thu hồi nợ. Kháng cáo của bà N không có cơ sở chấp nhận. Đề xuất: Đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bà M, không chấp nhận kháng cáo của bà N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Lê Thị Ngọc M (Đại diện Bị đơn) và đơn kháng cáo của bà Lê Thị N (Bà N) nộp trong thời hạn luật định, người kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận.
Bà Lê Thị Ngọc M (Đại diện Bị đơn) vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên coi là đã từ bỏ kháng cáo. HĐXX đình chỉ xét xử đối với yêu cầu kháng cáo của bà M, chỉ xem xét đối với kháng cáo của bà N.
Xét về tố tụng: Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/4/2020 (Bút lục 76), Abank khởi kiện đối với cá nhân bà Lê Thị Ngọc M. Bà Lê Thị Ngọc M có HKTT tại Phùng Khoang, Trung Văn, T, H và cư trú tại: số 13/3 tòa A4 Làng Quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, quận C, thành phố H. Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự và khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú sửa đổi năm 2013, Tòa án nhân dân quận C thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết, Ngân hàng Abank xuất trình "Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 01F80602222" đăng ký lần đầu ngày 06/8/2010 do Phòng Tài chính - kế hoạch UBND quận T cấp cho hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M, địa điểm kinh doanh: số 192 đường Nguyễn Trãi, tổ 18, phường T, quận T, thành phố H, đại diện hộ kinh doanh là bà Lê Thị Ngọc M.
Ngày 21/8/2023, Abank có đơn đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện (Bút lục 175) trong đó thay đổi người bị kiện từ bà Lê Thị Ngọc M thành Hộ bà M. Do vụ án đang được Tòa án nhân dân quận C thụ lý, giải quyết; đại diện Hộ bà M là bà M vẫn đang cư trú trên địa bàn quận C nên Tòa án nhân dân quận C tiếp tục giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Xét về nội dung:
Ngày 24/7/2012, Abank và Hộ bà M do bà M là đại diện đã ký Hợp đồng tín dụng số 2200-004566739. Abank đã giải ngân cho bị đơn vay theo các giấy nhận nợ ngày 13/3/2013 (số tiền 400.000.000đồng); giấy nhận nợ ngày 05/6/2013 (số tiền 600.000.000đồng); giấy nhận nợ ngày 13/6/2013 (số tiền 200.000.000đồng); giấy nhận nợ ngày 18/7/2013 (số tiền 300.000.000đồng).
Ngày 27/7/2013, Abank và Hộ bà M là đại diện ký Hợp đồng tín dụng số 2200LAV201301713, Abank đã giải ngân cho bị đơn vay theo Giấy nhận nợ ngày 05/8/2013 (số tiền 500.000.000đồng).
Bị đơn thừa nhận việc ký 02 hợp đồng tín dụng ngày 24/7/2012, 27/7/2013 nêu trên.
Các Hợp đồng tín dụng được ký kết đúng thẩm quyền, đảm bảo đúng điều kiện về chủ thể. Các bên tham gia ký kết đều tự nguyện, nội dung hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên hợp đồng có hiệu lực thi hành. Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân cho bị đơn vay tổng số tiền 2.000.000.000đ theo 05 các khế ước nhận nợ.
Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán, không thực hiện thanh toán đúng hạn theo thỏa thuận tại 02 hợp đồng tín dụng, các giấy nhận nợ nên Ngân hàng Abank yêu cầu bị đơn phải trả số tiền nợ gốc 1.948.100.000 đồng là có căn cứ.
Về tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn:
Tại Hợp đồng tín dụng số 2200LAV201301713 ngày 24/7/2012 đã quy định lãi suất cho vay theo từng lần nhận nợ và tại các giấy nhận nợ ngày 13/3/2013, ngày 05/6/2013, ngày 13/6/2013, ngày 18/7/2013 lãi suất trong hạn đều được điều chỉnh theo thông báo về lãi suất tiền vay của Abank Chi nhánh H, thành phố H.
Tại Hợp đồng tín dụng số 2200LAV201301713 ngày 27/7/2013 đã quy định lãi suất cho vay tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng là 11,5%/năm và được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần. Lãi suất quá hạn bằng 50% lãi suất trong hạn. Qua kiểm tra Bảng kê tính lãi do Abank xuất trình (Bút lục 144), Hội đồng xét xử xét thấy việc tính lãi của ngân hàng đã phù hợp với thỏa thuận của các bên theo hợp đồng tín dụng và các khế ước nhận nợ.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Abank đã xuất trình bảng kê tính lãi và các quyết định điều chỉnh lãi suất kể từ khi cho vay đến thời điểm xét xử sơ thẩm. Theo đó nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn thanh toán tiền lãi trong hạn 2.114.916.334đồng, tiền lãi quá hạn 863.058.958đồng. Việc điều chỉnh giảm lãi suất là sự tự nguyện của nguyên đơn và có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm:
Xét thấy, ngày 13/5/2011, ông M, bà N, anh T và Abank; bà Lê Thị Ngọc M cùng chồng là ông Vũ Duy H đã ký Hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ 3 (gắn liền với quyền sử dụng đất). Theo đó bên thế chấp là ông M, bà N, anh T tự nguyện đem tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 846, tờ bản đồ số 04, địa chỉ: xã Trường Thịnh, huyện H, thành phố H, diện tích 150m2 đất, trên đất có tài sản là 01 nhà ở cấp 3 để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi trong hạn, lãi phạt quá hạn, các khoản phí và chi phí phát sinh khác liên quan - nếu có) của bà M, ông H đối với Ngân hàng Abank theo các hợp đồng tín dụng do ngân hàng và bà M, ông H ký với mức dư nợ là 2 tỷ đồng.
Hợp đồng thế chấp tài sản được ký kết tự nguyện, tài sản đem thế chấp thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của người đem thế chấp, nội dung và hình thức của Hợp đồng phù hợp quy định pháp luật, được chứng thực của cơ quan có thẩm quyền về công chứng, chứng thực nên các hợp đồng này đều có hiệu lực thi hành. Mặc dù Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE262298 do Phòng tài nguyên và môi trường huyện H cấp ngày 06/02/2007 chỉ thể hiện diện tích đất 150m2, không thể hiện tài sản gắn liền với đất tuy nhiên tại đơn yêu cầu đăng ký thế chấp đã thể hiện tài sản trên đất có nhà ở cấp 3. Việc này hoàn toàn phù hợp với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân quận C nên hợp đồng thế chấp có hiệu lực thi hành nên yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của ngân hàng là có căn cứ.
Kháng cáo của bà N không có căn cứ chấp nhận.
Tuy nhiên về án phí phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ yêu cầu người kháng cáo nộp 300.000đồng là chưa chính xác, cần phải rút kinh nghiệm.
Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Bản án sơ thẩm tuyên dài dòng và không tách phần lãi trong hạn, lãi quá hạn bị đơn phải thanh toán nên HĐXX phúc thẩm sẽ sửa lại cách tuyên bản án.
Từ những nhận định trên.
Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
QUYẾT ĐỊNH
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M do bà Lê Thị Ngọc M đại diện.
2. Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 37/2023/KDTM-ST ngày 22/8/2022 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố H.
2.1. Chấp nhận yêu cầu đòi nợ của Ngân hàng N đối với Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M.
Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M gồm bà Lê Thị Ngọc M và ông Vũ Duy H phải thanh toán trả Ngân hàng N số tiền bao gồm: nợ gốc là 1.948.100.000 đồng; nợ lãi trong hạn là 2.114.916.334đ và nợ lãi quá hạn là 863.058.958đ. Tổng cộng 4.926.075.291đ.
Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm (23/8/2023) người phải thi hành án cỏn tiếp tục phải chịu lãi suất đối với khoản tiền gốc chưa trả theo mức lãi suất các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng và các khế ước nhận nợ đã ký.
2.2. Trường hợp Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M không trả nợ, Ngân hàng N có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 846, tờ bản đồ số 04, địa chỉ: xã Trường Thịnh, huyện H, thành phố H đứng tên hộ ông Phan Trọng M.
3. Về án phí sơ thẩm:
Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M phải chịu 112.926.075đồng án phí sơ thẩm. Ngân hàng V được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 56.071.000đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0021747 ngày 24/03/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận C, thành phố H.
Án phí phúc thẩm:
Hộ kinh doanh Lê Thị Ngọc M (gồm bà Lê Thị Ngọc M và ông Vũ Duy H) và bà Lê Thị N phải chịu mỗi người 2.000.000đồng án phí phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai số 19742, số 19741 ngày 19/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận C. Mỗi người còn phải nộp 1.700.000đồng án phí phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 29/2024/KDTM-PT
Số hiệu: | 29/2024/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về