Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 24/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 24/2021/DS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 09 năm 2021 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 82/2021/TLST-DS ngày 15 tháng 04 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 08 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 100/2021/QĐST-DS ngày 10/09/2021 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Ngân hàng N. (Sau đây gọi là Ngân hàng). Trụ sở: Số 02, L, phường C, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Anh T – Chức vụ: Quyền giám đốc Ngân hàng N – Chi nhánh huyện M, tỉnh Đắk Lắk (sau đây gọi là Ngân hàng). Địa chỉ: Số 55, đường N, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk.

Người được ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Văn T – Chức vụ: Phó giám đốc Ngân hàng N – Chi nhánh huyện M, tỉnh Đắk Lắk (Theo văn bản ủy quyền số: 206/NHNoMDR-UQ ngày 10/6/2021). Địa chỉ: Số 55, đường N, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

2/ Bị đơn: Vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1969. Cùng địa chỉ: Thôn 09, xã Cư Prao, huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk. Đều vắng mặt.

3/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1/ Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn 09, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

3.2/ Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn 09, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng của nguyên đơn trình bày:

Ngày 20/6/2019, vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N ký kết hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901148 với Ngân hàng N - chi nhánh huyện M, tỉnh Đắk Lắk để vay số tiền 180.000.000 đồng. Mục đích vay: Chăm sóc mía, chăn nuôi bò; Thời hạn vay: 12 tháng; Ngày trả nợ gốc: 19/6/2019, tiền lãi trả theo kỳ gốc. Lãi suất trong hạn: 10,5 %/ năm; Lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.

Để bảo đảm cho các khoản vay trên, ngày 17/6/2019, vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N đã thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BA439969 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 06/12/2013 cho hộ bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Văn Q, với diện tích 200m2; Thửa đất số 42; Tờ bản đồ 34; Địa chỉ thửa đất tại thôn 9, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U017813 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 10/3/2002 cho hộ Đỗ Văn T và đã chuyển nhượng cho hộ bà Nguyễn Thị N vào ngày 26/8/2011, với diện tích là 8.610m2; Thửa đất số 26; Tờ bản đồ 34; Địa chỉ đất tại thôn 9, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk (theo hợp đồng thế chấp số: 397/2019/BĐTV ngày 17/6/2019).

Do vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng trên nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải trả cho Ngân hàng số nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm là: 234.997.705 đồng, bao gồm 180.000.000 đồng nợ gốc và 54.997.705 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901148 ngày 20/6/2019.

Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án ngày 13/9/2021 vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N đã trả cho Ngân hàng 24.136.767 đồng, bao gồm 23.000.000 đồng tiền gốc và 1.136.767 đồng tiền lãi.

Vì vậy, tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng của nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 24.136.767 đồng và yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải có nghãi vụ trả cho Ngân hàng số nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm, ngày 28/9/2021 là: 210.860.938 đồng, bao gồm 157.000.000 đồng nợ gốc và 53.860.938 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901148 ngày 20/6/2019. Từ ngày 29/9/2021, vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải tiếp tục trả tiền lãi trên nợ gốc theo quy định của hợp đồng tín dụng.

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

* Đối với bị đơn vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N: Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng. Quá trình xác minh, đại diện chính quyền địa phương cung cấp thông tin hiện nay vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N không có mặt tại địa phương nên Tòa án tiến hành niêm yết công khai để vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về tố tụng: Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết vụ án; xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự; việc thu thập chứng cứ, trình tự giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn vắng mặt là vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng N.

+ Buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm, ngày 28/9/2021 là 210.860.938 đồng, trong đó tiền vay gốc 157.000.000 đồng và tiền lãi 53.860.938 đồng.

+ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu bị đơn phải có nghĩa vụ trả số tiền 24.136.767 đồng, bao gồm 23.000.000 đồng tiền gốc và 1.136.767 đồng tiền lãi + Về án phí: Bị đơn vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án như sau:

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn đề ngày 01/4/2021, Tòa án xác định quan hệ pháp luật: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại thôn 9, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk theo điểm a khoản 1 Điều 35;

điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn ủy quyền cho người đại diện tham gia phiên tòa, căn cứ Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử chấp nhận việc ủy quyền của nguyên đơn. Bị đơn đều vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Quá trình giải quyết vụ án, ngày 13/9/2021 vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N đã trả cho Ngân hàng số tiền 24.136.767 đồng, bao gồm 23.000.000 đồng tiền gốc và 1.136.767 đồng tiền lãi. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện và không yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ trả số tiền 24.136.767 đồng. Việc rút đơn trên là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ Điều 217, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút yêu cầu khởi kiện này và đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện.

[2] Về nội dung:

[2.1] Nguyên đơn cung cấp hợp đồng tín dụng do các bên ký kết số 5210LAV201901148 ngày 20/6/2019. Để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bên vay đã thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp số 397/2019/HĐTC ngày 17/6/2019 đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã Cư Prao, huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk. Các bên giao kết hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Nội dung hợp đồng ghi nhận khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu bên vay không có khả năng trả nợ đúng hạn gốc, lãi và không được chấp thuận cho cơ cấu lại nợ gốc, lãi thì Ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ số dư nợ của hợp đồng tín dụng sang nợ quá hạn và bên vay phải chịu lãi suất nợ quá hạn. Đã quá thời hạn trả nợ nhưng bên vay không thực hiện đúng với nội dung hợp đồng đã cam kết. Do đó, đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện và chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự để buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đối với nguyên đơn.

Đi với khoản tiền mà Ngân hàng yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải trả tính đến ngày xét xử sơ thẩm, ngày 28/9/2021 là:

210.860.938 đồng, bao gồm 157.000.000 đồng nợ gốc và 53.860.938 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901148 ngày 20/6/2019. Kể từ ngày vay đến nay, ngày 13/9/2021 vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N mới trả cho Ngân hàng 24.136.767 đồng, bao gồm 23.000.000 đồng tiền gốc và 1.136.767 đồng tiền lãi. Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với khoản tiền cho vay cũng như tiền lãi phát sinh là phù hợp với nội dung hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận. Vì vậy, Hội đồng xét xử buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm, ngày 28/9/2021 là 210.860.938 đồng, bao gồm 157.000.000 đồng nợ gốc và 53.860.938 đồng nợ lãi.

Kể từ ngày 29/9/2021 đến khi trả xong nợ, vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N còn phải tiếp tục chịu tiền lãi đối với Ngân hàng về số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

[2.2] Về tài sản thế chấp: Để bảo đảm cho các khoản vay trên, ngày 17/6/2019 vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N đã ký hợp đồng thế chấp số: 397/2019/BĐTV để thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA439969 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 06/12/2013 cho hộ bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Văn Q, với diện tích là 200 m2; Thửa đất số 42; Tờ bản đồ 34; Địa chỉ thửa đất tại thôn 9, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U017813 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 10/3/2002 cho hộ Đỗ Văn T và đã chuyển nhượng cho hộ bà Nguyễn Thị N vào ngày 26/8/2011, với diện tích là 8.610m2; Thửa đất số 26; Tờ bản đồ 34; Địa chỉ thửa đất tại thôn 9, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Hội đồng xét xử xét thấy việc ký kết hợp đồng thế chấp tài sản giữa các đương sự là tự nguyện, tuân thủ nội dung và hình thức, đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 2 Điều 292, Điều 293, Điều 317, Điều 318 và Điều 323 của Bộ luật dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N không tự nguyện thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ số nợ gốc và lãi suất phát sinh nói trên thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Sau khi vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng phải trả lại cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N 02 (Hai) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản gốc) mà vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 397/2019/BĐTV ngày 17/6/2019.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải chịu 10.543.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (theo mức 210.860.938 đồng x 5%).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 85, Điều 92, Điều 147, 217, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 244, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 137, Điều 138, khoản 2 Điều 292, Điều 293, Điều 323, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, khoản 1 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N: Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N số nợ tính đến ngày 28/9/2021 là: 210.860.938 đồng (Hai trăm mười triệu, tám trăm sáu mươi nghìn, chín trăm ba tám đồng) bao gồm 157.000.000 đồng nợ gốc và 53.860.938 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901148 ngày 20/6/2019.

Kể từ ngày 29/9/2021 đến khi trả xong nợ, vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N còn phải tiếp tục chịu tiền lãi đối với Ngân hàng về số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng phải lại cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N 01 (một) Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BA439969 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 06/12/2013 cho hộ bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Văn Q (bản gốc) và 01 (một) Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số U017813 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 10/3/2002 cho hộ Đỗ Văn T và đã chuyển nhượng cho hộ bà Nguyễn Thị N vào ngày 26/8/2011 (bản gốc).

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp, gồm: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA439969 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 06/12/2013 cho hộ bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Văn Q, với diện tích 200 m2; Thửa đất số 42; Tờ bản đồ 34; Địa chỉ thửa đất tại thôn 9, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U017813 do Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 10/3/2002 cho hộ Đỗ Văn T và đã chuyển nhượng cho hộ bà Nguyễn Thị N vào ngày 26/8/2011, với diện tích 8.610m2; Thửa đất số 26; Tờ bản đồ 34; Địa chỉ thửa đất tại thôn 9, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk để Ngân hàng thu hồi nợ (theo hợp đồng thế chấp tài sản số 397/2019/BĐTV ngày 17/6/2019).

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải trả cho Ngân hàng số tiền 24.136.767 đồng, bao gồm 23.000.000 đồng tiền gốc và 1.136.767 đồng tiền lãi.

3. Về án phí:

- Vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị N phải chịu 10.543.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Trả lại cho Ngân hàng N – Chi nhánh huyện M 5.470.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số 60AA/2021/0005048 ngày 15/4/2021.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 24/2021/DS-ST

Số hiệu:24/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện M'Đrắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về