Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 19/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 19/2023/DS-ST NGÀY 29/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 03/2022/TLST-DS ngày 17 tháng 01 năm 2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2023/QĐXXST-DS ngày 15/5/2023, giữa:

- Nguyên đơn: Ngân hàng N; địa chỉ: Số H, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn : Ông Bùi Nhứt V – Trưởng Phòng Kế hoạch – Kinh doanh Ngân hàng N Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai; địa chỉ: Số H, thị trấn K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H; địa chỉ: Làng D, xã P, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng N thông qua Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai (Ngân hàng) cho ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H vay tiền theo Hợp đồng tín dụng số 3452/2018/HĐTD ngày 18/12/2018, số tiền vay là 400.000.000 đồng, mục đích vay là chăm sóc 1,6 ha cà phê, chăn nuôi bò và vật dụng gia đình; thời hạn vay là 12 tháng; lãi suất 10%/năm; phân kỳ trả nợ là 01 kỳ vào ngày 18/12/2019 số tiền trả là 400.000.000 đồng. Kỳ hạn trả lãi tiền vay là 03 tháng/lần vào ngày 18 của tháng thứ 3 (có thỏa thuận trả lãi hàng tháng). Do tình hình kinh tế khó khăn, ông Q và bà H có đề nghị gia hạn thời hạn trả nợ, nên ngày 28/12/2019 Ngân hàng có thông báo về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc thành ngày 18/9/2020.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H trả cho Ngân hàng tiền lãi đến ngày 19/02/2020 là 47.013.699 đồng. Ngày 18/9/2020 đến kỳ hạn trả nợ gốc số tiền là 400.000.000 đồng nhưng ông Q và bà H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận nên ngày 19/9/2020 Ngân hàng đã chuyển số tiền này thành nợ quá hạn.

Khi vay tiền, để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng trên giữa Ngân hàng với ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H có giao kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1000117/HĐTC ngày 12/01/2017, kèm phụ lục Hợp đồng thế chấp số 01/1000117/PLHĐTC ngày 18/12/2018. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 74 tại xã P, huyện G, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 517236 ngày 08/02/2010 cho ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H.

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải trả toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 29/6/2023 là 587.123.288 đồng, trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 163.890.411 đồng, nợ lãi trong hạn là 23.232.877 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

Trường hợp ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H không trả được số nợ trên thì Ngân hàng yêu cầu Tòa án cho phát mãi tài sản thế chấp theo hiện trạng diện tích đất thực tế sử dụng là 10.971m2 để thu hồi nợ, cụ thể:

+ Phía Đông giáp đất ông S có các cạnh 77,01m + 31,62m.

+ Phía Tây giáp đường đất có các cạnh 54,23m + 17,36m + 28,32m + 36,09m.

+ Phía Nam giáp đất ông Rơ Mah T có các cạnh 4,24m + 28,65m + 42,94m + 64,28m.

+ Phía Bắc giáp đất ông Rơ Mah G có các cạnh 2,58m + 26,38m + 20,55m.

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ngân hàng yêu cầu ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải hoàn trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền là 4.000.000 đồng.

Về án phí: Ngân hàng yêu cầu ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải chịu toàn bộ tiền án phí.

2. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn là ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của họ.

3. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập các tài liệu, chứng cứ: 01 Đơn khởi kiện ghi ngày 30/12/2021; 03 Bảng kê tính lãi; 01 Hợp đồng tín dụng số 3452/2018/HĐTD ngày 18/12/2018 (bản sao); 02 Thông báo về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ ngày 27/9/2019 và ngày 28/12/2019 (bản sao); 01 Thông báo điều chỉnh giảm lãi suất cho vay trong hạn ngày 16/7/2021; 01 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1000117/HĐTC ngày 12/01/2017 (bản sao); 01 Phụ lục Hợp đồng thế chấp số 01/1000117/PLHĐTC ngày 18/12/2018 (bản sao); 01 Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 13/01/2017 (bản sao); 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 517236 (bản sao); 01 Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh (bản sao);

01 Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (bản sao); 01 Quyết định ủy quyền thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng và thi hành án số 2965 ngày 27/12/2019 (bản sao); 01 Giấy ủy quyền số 204/NHNo.IGĐGL- TH/UQ ngày 28/6/2023; 01 Quyết định về việc giao nhiệm vụ đối với cán bộ số 1152 ngày 17/6/2021 (bản sao); 01 Quyết định về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng N số 1058 ngày 18/12/2019 (bản sao); 01 Quyết định về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng N số 600 ngày 23/4/2012 (bản sao); 01 (Một) Điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng (bản phô tô); 01 Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 10/3/2022; 01 Biên bản xác minh ngày 17/01/2022; 01 Công văn ngày 26/12/2022; 02 Biên bản xác minh của UBND xã P ngày 21/12/2022; 01 Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BD 517236 (bản phô tô); 01 Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi ngày 24/9/2009 (bản phô tô); 01 Biên bản xác định ranh giới, kích thước thửa đất và xác nhận không tranh chấp của các hộ lân cận (bản phô tô); 01 Tờ khai lệ phí trước bạ nhà, đất không ghi ngày/tháng/năm (bản phô tô); 01 Giấy sang nhượng và chuyển quyền sử dụng đất rẫy ghi ngày 17/12/1998 (bản phô tô); 01 Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 16/3/2023.

4. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Hợp đồng giao kết giữa hai bên chủ thể trong đó có một bên chủ thể Ngân hàng là tổ chức tín dụng có đăng ký kinh doanh và một bên là bị đơn không có đăng ký kinh doanh nên được xác định là hợp đồng dân sự về tín dụng và pháp luật áp dụng là Bộ luật Dân sựLuật Các tổ chức tín dụng; Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt theo giấy triệu tập, không cung cấp chứng cứ nên phải chịu trách nhiệm về việc không chứng minh được và Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hợp đồng tín dụng số 3452/2018/HĐTD ngày 18/12/2018 giữa nguyên đơn với bị đơn được giao kết hợp pháp nên có hiệu lực, các bên trong hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ của bên vay theo các hợp đồng đã được giao kết nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nợ là có căn cứ theo quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 470 của Bộ luật Dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N, buộc ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải liên đới trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 29/6/2023 là 587.123.288 đồng, trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 163.890.411 đồng, nợ lãi trong hạn là 23.232.877 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp, Hội đồng xét xử thấy rằng giữa Ngân hàng với ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H có giao kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1000117/HĐTC ngày 12/01/2017, kèm phụ lục Hợp đồng thế chấp số 01/1000117/PLHĐTC ngày 18/12/2018. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 74 xã P, huyện G, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 517236 ngày 08/02/2010 cho ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H. Qua kết quả xem xét và thẩm định tại chỗ ngày 10/3/2022 thấy rằng, hiện trạng thực tế sử dụng thửa đất có sự chênh lệnh so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể:

+ Phía Đông giáp đất ông S có các cạnh 77,01m + 31,62m.

+ Phía Tây giáp đường đất có các cạnh 54,23m + 17,36m + 28,32m + 36,09m.

+ Phía Nam giáp đất ông Rơ Mah T có các cạnh 4,24m + 28,65m + 42,94m + 64,28m.

+ Phía Bắc giáp đất ông Rơ Mah G có các cạnh 2,58m + 26,38m + 20,55m. Diện tích: 10.971m2.

Kết quả xác minh ngày 17/01/2022, nội dung Công văn số 176/UBND-ĐC ngày 26/12/2022, Biên bản xác minh ngày 21/12/2022 và Biên bản xác định ranh giới, kích thước thửa đất và xác nhận không tranh chấp của các hộ lân cận của Uỷ ban nhân dân xã P và lời khai của người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện G đều thể hiện thửa đất nói trên do ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H là người sử dụng ổn định, có ranh giới rõ ràng, không có tranh chấp, diện tích thửa đất thay đổi là do có sai sót trong đo đạc; Nguyên đơn khẳng định thửa đất nói trên là tài sản Ngân hàng nhận thế chấp. Vì vậy căn cứ vào Điều 299 của Bộ luật Dân sự, hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về việc xử lý tài sản thế chấp theo đúng hiện trạng thửa đất thực tế sử dụng.

[3] Về chi phí xem xét và thẩm định tại chỗ: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 157, 158 của Bộ luật Tố tụng Dân sự buộc ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng.

[4] Về án phí: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn là người có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 288, Điều 299, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng.

- Áp dụng Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục án phí, lệ phí tòa án Ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N.

2. Buộc ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải liên đới trả cho Ngân hàng N tổng số tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số 3452/2018/HĐTD ngày 18/12/2018 tính đến ngày 29/6/2023 là 587.123.288 đồng (năm trăm tám mươi bảy triệu một trăm hai mươi ba nghìn hai trăm tám mươi tám đồng), trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng), nợ lãi quá hạn là 163.890.411 đồng (một trăm sáu mươi ba triệu tám trăm chín mươi nghìn bốn trăm mười một đồng), nợ lãi trong hạn là 23.232.877 đồng (hai mươi ba triệu hai trăm ba mươi hai nghìn tám trăm bảy mươi bảy đồng) và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

3. Trong trường hợp ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H không trả đủ số tiền nợ nêu trên cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 01/1000117/PLHĐTC ngày 18/12/2018. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Thửa đất số 57, tờ bản đồ số 74 xã P, huyện G, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 517236 ngày 08/02/2010 cho ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H theo hiện trạng thực tế sử dụng, cụ thể:

+ Phía Đông giáp đất ông S có các cạnh 77,01m + 31,62m.

+ Phía Tây giáp đường đất có các cạnh 54,23m + 17,36m + 28,32m + 36,09m.

+ Phía Nam giáp đất ông Rơ Mah T có các cạnh 4,24m + 28,65m + 42,94m + 64,28m.

+ Phía Bắc giáp đất ông Rơ Mah G có các cạnh 2,58m + 26,38m + 20,55m. Diện tích: 10.971m2.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

5. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

6. Về án phí: Buộc ông Hồ Văn Q và bà Nguyễn Thị H phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 27.484.932 đồng (hai mươi bảy triệu bốn trăm tám mươi bốn nghìn chín trăm ba mươi hai đồng). Hoàn trả lại cho Ngân hàng N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.856.767 đồng (mười một triệu tám trăm năm mươi sáu nghìn bảy trăm sáu mươi bảy đồng) theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí tòa án số 0008434 ngày 12/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên toà thì có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 19/2023/DS-ST

Số hiệu:19/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về