Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 18/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 18/2023/DS-ST NGÀY 02/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 02 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 28/2023/TLST-DS ngày 23 tháng 3 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 31/2023/QĐXX-DSST ngày 30 tháng 6 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2023/QĐST-DS ngày 20/7/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ.

Địa chỉ: Số 130 – P, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh T – Chủ tịch HĐQT.

Người đại diện tham gia tố tụng: Bà Trần Thị L. (có mặt) Chức vụ: Nhân viên phát triển kinh doanh, Phòng giao dịch Gia Bình – Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1956. (có mặt) Địa chỉ: Khu phố Tam Á, phường Gia Đông, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Phạm Khắc T, sinh năm 1990. (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố Tam Á, phường Gia Đông, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời khai của đại diện nguyên đơn; lời khai của bị đơn có trong hồ sơ vụ án và tại phiên toà thì nội dung vụ án tóm tắt như sau.

Phía bà Trần Thị L trình bày:

Ngày 29/12/2014 giữa Ngân hàng TMCP Đ – Phòng giao dịch Gia Bình với bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1956 có địa chỉ tại thôn Tam Á, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành (nay là khu phố Tam Á, phường Gia Đông, thị xã Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh có thỏa thuận thực hiện một hợp đồng tín dụng. Theo thỏa thuận thì Ngân hàng TMCP Đ – Phòng giao dịch Gia Bình cho bà Đ vay khoản tiền gốc là 20.000.000 đồng, lãi suất 10%/năm, ngày đáo hạn là ngày 29/6/2016. Thỏa thuận vay tiền được thể hiện bằng hình thức “Giấy vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ”. Sau khi thỏa thuận phía bà Đ đã nhận đủ số tiền vay và ký nhận giấy nhận nợ ngày 29/12/2014. Thỏa thuận vay tiền không có tài sản thế chấp nhưng có sự đảm bảo tín chấp của anh Phạm Khắc T, sinh năm 1990 là con trai của bà Đ, thỏa thuận tín chấp với nội dung trường hợp bà Đ không trả được nợ thì anh T có nghĩa vụ trả nợ thay bà Đ.

Sau khi nhận được tiền vay bà Đ đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bà Đ không trả nợ gốc cũng như trả lãi đúng hạn. Tính đến thời điểm ngày 02/8/2023 thì bà Đ còn nợ Ngân hàng số tiền nợ gốc là 10.615.087 đồng, nợ lãi trong hạn là 964.913 đồng, lãi quá hạn là 11.954.326 đồng, tổng cộng cả tiền nợ gốc và lãi là 23.534.326 đồng.

Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Đ phải hoàn trả số tiền còn nợ. Trường hợp bà Đ không trả được nợ thì đề nghị Tòa án buộc anh Phạm Khắc T là người bảo lãnh phải có nghĩa vụ trả nợ thay bà Đ.

Phía bà Nguyễn Thị Đ trình bày:

Thông qua hội phụ nữ thôn, ngày 29/12/2014 bà có ký thỏa thuận vay tiền của Ngân hàng TMCP Đ – Phòng giao dịch Gia Bình số tiền vay gốc là 20.000.000 đồng cộng với lãi suất mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hợp đồng vay tiền không có thế chấp tài sản nhưng có sự bảo lãnh tín chấp của anh Phạm Khắc T, sinh năm 1990 là con trai của bà. Sau khi thỏa thuận bà đã nhận được số tiền vay, tuy nhiên sau đó bà đã không trả được khoản nợ đúng như đã thỏa thuận với Ngân hàng. Nay phía Ngân hàng có yêu cầu khởi kiện đòi nợ, bà đề nghị Ngân hàng cho bà trả dần mỗi tháng khoảng 1.000.000 đồng, nếu bà không trả được thì anh T sẽ thay bà thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng.

Phía anh Phạm Khắc T: Anh T theo thỏa thuận trong hợp đồng là người bản lãnh cho bà Đ khoản vay của Ngân hàng. Trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ kiện, Tòa án đã tiến hành đầy đủ thủ tục tố tụng với anh T nhưng anh T cố tình không khai báo, cố tình không thực hiện thủ tục tố tụng đã được Tòa án thông báo. Do vậy hồ sơ vụ án không có lời khai của anh T, anh T cũng lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa đại diện Nguyên đơn tham gia tố tụng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà Đ phải có nghĩa vụ trả số tiền nợ đã vay cùng với lãi suất theo thỏa thuận cho đến khi bà Đ trả hết khoản nợ đã vay. Trường hợp bà Đ không trả được nợ thì buộc anh T phải có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Đ. Phía bà Đ thừa nhận khoản nợ đã vay của Ngân hàng nhưng bà đề nghị Ngân hàng cho bà trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng vì bà cũng không có khả năng trả nợ. Anh T vắng mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận Thành tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong thời gian chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, những người tiến hành tố tụng khác cũng như nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, không có vi phạm cần kiến nghị khắc phục. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt nên HĐXX đưa vụ án ra xét xử vắng anh T là có căn cứ.

Về giải quyết vụ án: Có căn cứ để xác định ngày 29/12/2014 giữa Ngân hàng TMCP Đ – phòng giao dịch Gia Bình với bà Nguyễn Thị Đ có thiết lập một thỏa thuận vay tiền với số tiền gốc Ngân hàng cho bà Đ vay là 20.000.000 đồng. Hai bên cũng thỏa thuận về lãi suất, thời hạn vay cũng như thống nhất anh Phạm Khắc T là người bảo lãnh cho số tiền vay của bà Đ. Nay bà Đ vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của phía Ngân hàng, buộc bà Đ phải có nghĩa vụ thanh toán trả số tiền nợ cho Ngân hàng. Chấp nhận yêu cầu của phía Ngân hàng tuyên bố trường hợp bà Đ không trả được số tiền vay thì anh T phải có nghĩa vụ trả thay cho bà Đ.

Về án phí: Yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận nên bà Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Từ nội dung trên:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Xem xét tài liệu chứng cứ do các bên đương sự cung cấp cũng như chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án:

[1]. Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ đối với bà Nguyễn Thị Đ đề nghị Toà án giải quyết buộc bà Đ phải trả lại số tiền còn nợ theo hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Do vậy việc Tòa án nhân dân thị xã Thuận Thành thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ là có căn cứ.

[2]. Về nội dung tranh chấp: Ngày 29/12/2014 giữa Ngân hàng TMCP Đ với bà Nguyễn Thị Đ có thỏa thuận thực hiện một hợp đồng tín dụng. Theo thỏa thuận thì Ngân hàng TMCP Đ – Phòng giao dịch Gia Bình cho bà Đ vay khoản tiền gốc là 20.000.000 đồng, lãi suất 10%/năm, ngày đáo hạn 29/6/2016. Thỏa thuận vay tiền được thể hiện bằng hình thức “Giấy vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ”. Sau khi thỏa thuận phía bà Đ đã nhận đủ số tiền vay và ký nhận giấy nhận nợ ngày 29/12/2014. Thỏa thuận vay tiền không có tài sản thế chấp nhưng có sự đảm bảo tín chấp của anh Phạm Khắc T là con trai của bà Đ, thỏa thuận tín chấp với nội dung trường hợp bà Đ không trả được nợ thì anh T có nghĩa vụ trả nợ thay bà Đ. Bà Đ đã nhận đủ số tiền vay theo hợp đồng.

Như vậy có căn cứ để xác định giữa Ngân hàng TMCP Đ với bà Đ đã thiết lập một hợp đồng vay tài sản (vay tiền). Nay bà Đ vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc, vi phạm nghĩa vụ trả nợ lãi do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của phía Ngân hàng buộc bà Đ phải trả tổng số tiền nợ tính đến ngày 02/8/2023 là 23.534.326 đồng, trong đó nợ gốc là 10.615.087 đồng, nợ lãi trong hạn là 964.913 đồng, lãi quá hạn là 11.954.326 đồng.

Đối với thỏa thuận bảo lãnh giữa anh Phạm Khắc T với phía Ngân hàng và phía bà Đ, đây là thỏa thuận tự nguyện của các bên nên cần chấp nhận yêu cầu của phía Ngân hàng, buộc anh T phải có nghĩa vụ trả nợ thay trong trường hợp bà Đ không trả được khoản nợ cho Ngân hàng.

[3]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận nên Ngân hàng TMCP Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, tuy nhiên do bà Đ là người cao tuổi và có đề nghị miễn án phí nên miễn án phí cho bà Đ.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều 147, 207, 227, 228, 235, 264, 266, 267, 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Các Điều 463, 466, 468 của Bộ Luật dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ, khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Đ phải trả khoản nợ theo hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký ngày 29/12/2014.

Buộc bà Nguyễn Thị Đ phải trả Ngân hàng TMCP Đ số tiền nợ tính đến ngày 02/8/2023 theo khế ước vay nợ ngày 29/12/2014 với số tiền nợ gốc là 10.615.087 đồng, nợ lãi trong hạn là 964.913 đồng, lãi quá hạn là 11.954.326 đồng. Tổng số tiền bà Đ phải trả Ngân hàng TMCP Đ là 23.534.326 đồng.

Bà Đ tiếp tục phải trả số tiền lãi theo thỏa thuận tại khế ước ngày 29/12/2014 tương ứng với số tiền nợ còn lại đến khi trả xong số tiền nợ.

Trường hợp bà Đ không trả được số tiền cho Ngân hàng, phía Ngân hàng có quyền yêu cầu anh Phạm Khắc T phải có nghĩa vụ trả thay bà Đ số tiền nợ theo như thỏa thuận bảo lãnh mà anh T đã ký.

2. Về án phí: Ngân hàng TMCP Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả Ngân hàng TMCP Đ số tiền 570.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0005934 ngày 23/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành (nay là thị xã Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh. Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Đ.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 18/2023/DS-ST

Số hiệu:18/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về