Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 18/2019/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 18/2019/DS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 104/2019/TLST-DS ngày 23 tháng 4 năm 2019 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng T.

Địa chỉ trụ sở: Tháp T, 35 H, quận H, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức T - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Đức Q - Giám đốc Ngân hàng T - Chi nhánh Biên Hòa (Theo giấy ủy quyền số 906/QĐ-T ngày 26/11/2018). Ông Vũ Đức Q ủy quyền lại cho ông Phan Văn D – Cán bộ kiểm soát Phòng Quản lý nội bộ.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1956 và bà Quách Thị H, sinh năm 1960.

Cùng trú tại: Ấp X, xã S, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

(Ông D có mặt, ông T, bà H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Quá trình tố tụng tại Tòa án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phan Văn D trình bày:

Ngày 24/6/2017, Ngân hàng T – Chi nhánh Biên Hòa ký “Hợp đồng tín dụng” số: 106/2017/9906204/HĐTD với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H. Theo hợp đồng tín dụng, ông T, bà H vay số tiền 700.000.000 đồng; mục đích sử dụng tiền vay: mua sắm trang thiết bị nội thất gia đình; thời hạn vay: 60 tháng; lãi suất vay: 10.8%/năm trong vòng 12 tháng, sau 12 tháng áp dụng lãi suất = Lãi suất tiết kiệm trả sau VNĐ kỳ hạn 24 tháng + 5%/năm. Vào ngày 26/6/2017, ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H đã ký bảng kê rút vốn và Ngân hàng đã thực hiện giải ngân số tiền 700.000.000 đồng cho khách hàng.

Toàn bộ số tiền vay tại Hợp đồng tín dụng trên được đảm bảo bằng tài sản của ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H. Cụ thể: Vào ngày 24/6/2017, ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H đã ký Hợp đồng thế chấp bất động sản số:

106/2017/9906204/HĐBĐ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 209340, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 06012, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp ngày 20/9/2016, xác nhận chuyển nhượng ngày 21/6/2017 để thực hiện bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả khoản vay nêu trên.

Khoản vay đã quá hạn kể từ ngày 29/11/2018, tới thời điểm hiện nay ông T, bà H mới chỉ thực hiện trả được 115.100.000 đồng tiền gốc và 31.896.986 đồng tiền lãi, phần nợ còn lại vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng mặc dù Ngân hàng đã gửi công văn đôn đốc nhiều lần.

Nay yêu cầu ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H phải thực hiện ngay nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng với tổng số tiền (tạm tính đến ngày 19/11/2019) là: 741.564.005 đồng (Bảy trăm bốn mươi mốt triệu năm trăm sáu mươi bốn ngàn không trăm lẻ năm đồng), trong đó, nợ gốc là 584.900.000 đồng (Năm trăm tám mươi tư triệu chín trăm ngàn đồng), nợ lãi trong hạn là 145.815.362 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm mười lăm ngàn ba trăm sáu mươi hai đồng), nợ lãi quá hạn là 10.848.643 đồng (Mười triệu tám trăm bốn mươi tám ngàn sáu trăm bốn mươi ba đồng). Đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Hợp đồng thế chấp bất động sản số: 106/2017/9906204/HĐBĐ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 209340, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 06012, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp ngày 20/9/2016 đảm bảo nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong trường hợp ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng.

* Quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H trình bày:

Ông Toàn và bà H xác định có ký hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp ngày 24/6/2017 với Ngân hàng T đúng như phía ngân hàng đã trình bày. Quá trình vay ông T và bà H đã trả được một phần tiền gốc và lãi.

Nay Ngân hàng T yêu cầu ông T và bà H có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng với tổng số tiền (tạm tính đến ngày 08/4/2019) là: 731.373.327 đồng thì ông T và bà H không có ý kiến gì và yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án được tiến hành theo quy định pháp luật. Đối với việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng T các khoản sau:

+ Tổng số tiền nợ tính đến hết ngày 19/11/2019 của khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số Hợp đồng tín dụng số: 106/2017/9906204/HĐTD được giao kết giữa Ngân hàng T với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H vào ngày 24/6/2017 là: 741.564.005 đồng (Bảy trăm bốn mươi mốt triệu năm trăm sáu mươi bốn ngàn không trăm lẻ năm đồng); bao gồm: nợ gốc chưa trả là 584.900.000 đồng (Năm trăm tám mươi tư triệu chín trăm ngàn đồng), nợ lãi trong hạn chưa trả là 145.815.362 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm mười lăm ngàn ba trăm sáu mươi hai đồng), nợ lãi quá hạn chưa trả là 10.848.643 đồng (Mười triệu tám trăm bốn mươi tám ngàn sáu trăm bốn mươi ba đồng).

+ Tiền lãi phát sinh tiếp theo tính từ ngày 20/11/2019 cho đến khi trả hết các khoản nợ trên theo lãi suất đã được thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số: 106/2017/9906204/HĐTD được giao kết giữa Ngân hàng T với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H vào ngày 24/6/2017.

Phần nghĩa vụ liên đới nêu trên của ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H là bằng nhau và được đảm bảo thực hiện bằng các tài sản mà ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H đã thế chấp cho Ngân hàng T là quyền sử dụng thửa đất số 101 (99), tờ bản đồ số 20 xã Sông Thao, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (theo “Hợp đồng thế chấp bất động sản” số: 106/2017/9906204/HĐBĐ được giao kết giữa Ngân hàng T với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H vào ngày 24/6/2017).

Về án phí: Ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:

1.1. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong vụ án, yêu cầu khởi kiện và quy định pháp luật, “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc trường hợp quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom thực hiện thủ tục thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

1.2. Bị đơn ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Theo các tài liệu chứng cứ đã thu thập thể hiện, ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H đã vay tài sản của Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng sau: Bị đơn ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H có ký “Hợp đồng tín dụng” số: 106/2017/9906204/HĐTD ngày 24/6/2017 với Ngân hàng T – Chi nhánh Biên Hòa. Theo hợp đồng tín dụng trên, ông T và bà H vay của Ngân hàng số tiền 700.000.000 đồng; mục đích sử dụng tiền vay: mua sắm trang thiết bị nội thất gia đình; thời hạn vay: 60 tháng; lãi suất vay: 10.8%/năm trong vòng 12 tháng, sau 12 tháng áp dụng lãi suất = Lãi suất tiết kiệm trả sau VND kỳ hạn 24 tháng + 5%/năm và “Điều khoản và điều kiện vay” đính kèm hợp đồng. Đồng thời, ông T, bà H và Ngân hàng có ký “Hợp đồng thế chấp bất động sản” số:

106/2017/9906204/HĐBĐ ngày 24/6/2017. Theo đó, ông T, bà H thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng thửa đất số 101, tờ bản đồ số 20 xã Sông Thao, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; quyền sở hữu tất cả các tài sản đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai gắn liền với quyền sử dụng đất cũng như các công trình, máy móc, trang thiết bị do bên thế chấp cải tạo, xây dựng thêm gắn liền với quyền sử dụng đất thế chấp. Phạm vi nghĩa vụ bảo đảm bao gồm việc thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của bên thế chấp đối với Ngân hàng phát sinh từ tất cả các hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng với bên thế chấp trong khoảng thời gian từ ngày 24/6/2017 đến ngày 24/6/2022. Hợp đồng thế chấp này đã được Công chứng tại Văn phòng công chứng Bình An cùng ngày; được đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - chi nhánh Trảng Bom vào ngày 26/6/2017. Ngày 26/6/2017, Ngân hàng đã giải ngân cho ông T, bà H số tiền vay theo hợp đồng tín dụng nêu trên. ông T và bà H mới trả được cho Ngân hàng số tiền gốc là 115.100.000 đồng và tiền lãi tính đến hết ngày 19/11/2019 với số tiền là 31.896.986 đồng. Như vậy, đối với Hợp đồng tín dụng trên, tính đến ngày xét xử (19/11/2019) thì ông T và bà H còn nợ tổng số tiền là 741.564.005 đồng (Bảy trăm bốn mươi mốt triệu năm trăm sáu mươi bốn ngàn không trăm lẻ năm đồng), trong đó, nợ gốc là 584.900.000 đồng (Năm trăm tám mươi tư triệu chín trăm ngàn đồng), nợ lãi trong hạn là 145.815.362 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm mười lăm ngàn ba trăm sáu mươi hai đồng), nợ lãi quá hạn là 10.848.643 đồng (Mười triệu tám trăm bốn mươi tám ngàn sáu trăm bốn mươi ba đồng).

Căn cứ vào Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 thì bà ông T và bà H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ nêu trên và tiền lãi phát sinh tiếp theo kể từ ngày 20/11/2019 cho đến khi trả hết nợ theo lãi suất được thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng mà các bên đã giao kết. Theo quy định tại Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015 thì nghĩa vụ nêu trên được đảm bảo thực hiện bằng tài sản mà ông T và bà H đã thế chấp cho Ngân hàng theo “Hợp đồng thế chấp bất động sản” số: 106/2017/9906204/HĐBĐ được giao kết giữa Ngân hàng với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H vào ngày 24/6/2017. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[3]. Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4]. Về án phí: ông T và bà H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 203, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 232, Điều 264, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 317, Điều 357, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 và Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng T đối với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

- Buộc ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng T các khoản sau:

+ Tổng số tiền nợ tính đến hết ngày 19/11/2019 của khoản vay theo “Hợp đồng tín dụng” số: 106/2017/9906204/HĐTD được giao kết giữa Ngân hàng T với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H vào ngày 24/6/2017 là: 741.564.005 đồng (Bảy trăm bốn mươi mốt triệu năm trăm sáu mươi bốn ngàn không trăm lẻ năm đồng); bao gồm: nợ gốc chưa trả là 584.900.000 đồng (Năm trăm tám mươi tư triệu chín trăm ngàn đồng), nợ lãi trong hạn chưa trả là 145.815.362 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm mười lăm ngàn ba trăm sáu mươi hai đồng), nợ lãi quá hạn chưa trả là 10.848.643 đồng (Mười triệu tám trăm bốn mươi tám ngàn sáu trăm bốn mươi ba đồng).

+ Tiền lãi phát sinh tiếp theo tính từ ngày 20/11/2019 cho đến khi trả hết các khoản nợ trên theo lãi suất đã được thỏa thuận trong “Hợp đồng tín dụng” số:

106/2017/9906204/HĐTD được giao kết giữa Ngân hàng T với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H vào ngày 24/6/2017.

- Phần nghĩa vụ liên đới nêu trên của ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H là bằng nhau và được đảm bảo thực hiện bằng các tài sản mà ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H đã thế chấp cho Ngân hàng T là quyền sử dụng thửa đất số 101, tờ bản đồ số 20 xã Sông Thao, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (theo “Hợp đồng thế chấp bất động sản” số: 106/2017/9906204/HĐBĐ được giao kết giữa Ngân hàng T với ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H vào ngày 24/6/2017).

2. Về án phí: Ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 33.662.560 đồng (Ba mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi hai ngàn năm trăm sáu mươi đồng).

Ngân hàng T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 16.628.000 đồng (Mười sáu triệu sáu trăm hai mươi tám ngàn đồng) theo biên lai thu số 0006622 ngày 23/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom.

3. Về quyền kháng cáo: Báo cho Ngân hàng T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Đức T và bà Quách Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án này theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 18/2019/DS-ST

Số hiệu:18/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về