Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 14/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 14/2022/DS-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 16/2022/TLST-DS ngày 29 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 12/2022/QĐST-DS ngày 16 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V; địa chỉ: Số 89 Láng H, phường Láng H, quận Đống Đ, thành phố Hà N.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Văn N, chuyên viên xử lý nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V-Chi nhánh Quảng B (văn bản ủy quyền số 485/2021/UQ-LCC-KHDNPƯNMB ngày 10/4/2022), có mặt.

2. Bị đơn: Ông Hồ Sỹ C, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn Đại H, xã Triệu Đ, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr, vắng mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Lê Thị Thanh H, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn Đại H, xã Triệu Đ, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/4/2022 và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Ngày 30/8/2021, ông Hồ Sỹ C vay vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V(VPBank)-Chi nhánh Quảng Tr theo Hợp đồng tín dụng số LN2108274220339 với số tiền là 330.000.000 đồng; thời hạn vay 60 tháng; mục đích sử dụng vốn vay: mua xe ô tô hiệu KIA. Các kỳ hạn trả nợ: Trả gốc và lãi trả định kỳ 01 tháng/lần vào ngày 05 hàng tháng; lãi suất trong hạn 6,8%/năm cố định trong 12 tháng kể từ ngày 31/8/2021, sau thời gian này lãi suất sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần vào các ngày 01/01, 01/4, 01/7 và 01/10 hàng năm, ngày điều chỉnh đầu tiền là ngày 31/8/2022, ngày điều chỉnh tiếp theo là ngày 01/10/2022, mức điều chỉnh bằng lãi suất cơ sở VNĐ áp dụng đối với khoản vay có tài sản đảm bảo dành cho khách hàng cá nhân kỳ hạn 60 tháng cộng biên độ 3,6/năm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, phạt chậm trả lãi: Theo quy định trong hợp đồng tín dụng.

Ngày 30/8/2021, ông Hồ Sỹ C đã ký vào giấy đề nghị giải ngân; ngày 31/8/2021, Ông C đã nhận toàn bộ số tiền vay là 330.000.000 đồng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V (VPBank)-Chi nhánh Quảng Tr.

Tài sản đảm bảo cho khoản vay nói trên là: 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA biển kiểm soát 74A-xxx.39 theo giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 74 004362 do Phòng cảnh sát giao thÔng C an tỉnh Quảng Trị cấp ngày 30/8/2021 cho ông Hồ Sỹ C Qúa trình thực hiện hợp đồng tín dụng, ông Hồ Sỹ C đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, đôn đốc nhưng Ông C không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy, Ngân hàng đề nghị Tòa án buộc Ông C phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc và tiền lãi tính đến ngày 31/8/2022 là 355.193.393 đồng; trong đó: nợ gốc là 324.500.000, lãi quá hạn là 29.131.526 đồng, phạt chậm trả là 1.561.868 đồng và tiếp tục tính lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi Ông C thanh toán hết nợ. Trường hợp Ông C vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị cho phát mãi tài sản đảm bảo là 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 74A-xxx.39 mang tên Hồ Sỹ C.

Đối với bị đơn ông Hồ Sỹ C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Thanh H: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng cho Ông C và bà H nhưng Ông C và bà H không nộp bản trình bày ý kiến, không tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, không đến tham gia phiên tòa. Do đó, Tòa án tiến hành theo các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khÔng C hấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị áp dụng khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự; Điều 91, 95 Luật tổ chức tín dụng. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V(VPBank). Buộc ông Hồ Sỹ C phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V với số tiền gốc là 324.500.000 đồng và tiền lãi kể từ ngày 05/11/2021 cho đến ngày xét xử. Trường hợp ông Hồ Sỹ C không thanh toán khoản tiền nêu trên thì Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V(VPBank) có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Ph phát mãi tài sản đã thế chấp để đảm bảo cho việc trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký, tài sản thế chấp là 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 74A-xxx.39 mang tên Hồ Sỹ C; về chi phí tố tụng: nguyên đơn phải chịu chi phí đăng phát thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1.] Xác định quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn ông Hồ Sỹ C phải trả cho nguyên đơn số tiền là 355.193.393 đồng do vi phạm hợp đồng tín dụng. Do đó, Toà án nhân dân huyện Triệu Phong xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Hồ Sỹ C có địa chỉ ở Thôn Đại H, xã Triệu Đ, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr. Vì vậy, Toà án nhân dân huyện Triệu Phong thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về tố tụng:

- Ngày 29/4/2022, Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong thụ lý vụ án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn ông Hồ Sỹ C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Thanh H nhưng Ông C và bà H vắng mặt tại nơi cư trú theo địa chỉ đã ghi trong Hợp đồng tín dụng số LN2108274220339 ký kết ngày 30/8/2021 (Thôn Đại H, xã Triệu Đ, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr). Qua xác minh Công an xã Triệu Đ, huyện Triệu Ph thì Ông C và bà H hiện đã nhập khẩu và đăng ký thường trú tại thôn 8, xã Ea hu huyện Cư Kuin, tỉnh Đắc Lắc vào ngày 25/02/2022, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho Ông C và bà H theo địa chỉ mới trên nhưng bưu điện hoàn về với lý do Ông C và bà H khÔng C ó ở địa chỉ trên. Căn cứ địa chỉ của Ông C và bà H đã ghi trong Hợp đồng tín dụng, Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết trụ sở Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, UBND xã Triệu Đại và tại nhà văn hóa Thôn Đại H, xã Triệu Đ, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr. Theo yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V (VPBank) và để đảm bảo cho bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhận được văn bản tố tụng của Tòa án nên Tòa án đã tiến hành thủ tục thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng được phát sóng trên Báo công lý 03 số liên tiếp 405, 406, 407 vào các ngày 07/6/2022, 10/6/2022 và 14/6/2022; trên đài tiếng nói Việt Nam 03 lần liên tiếp từ 17h50-18h00 vào các ngày 02, 03, 04/6/2022 nhưng Ông C và bà H khÔng C ó phản hồi gì nên Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết thông báo phiên họp kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mở vào các ngày 07/6/2022 và 01/7/2022 nhưng Ông C và bà H vẫn vắng mặt khÔng C ó lý do nên Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành phiên họp kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải được có sự chứng kiến của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn. Do Ông C và bà H vắng mặt nên Tòa án đã gửi thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ cho Ông C và bà H theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ngày 29/7/2022, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử mở phiên toà vào ngày 16/6/2022 nhưng nguyên đơn có mặt; Ông C và bà H vắng mặt lần thứ nhất không rõ lý do nên Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa và ấn định xét xử lại vụ án vào ngày 30/8/2022. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có mặt; bị đơn Ông C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng đều vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[4] Về nội dung: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc ông Hồ Sỹ C phải trả tổng số tiền là 355.193.393 đồng trong đó tiền gốc là 324.500.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 31/8/2022 là 29.131.526 đồng, tiền lãi chậm trả là 1.561.868 đồng. Tiếp tục trả khoản tiền lãi từ khi xét xử cho đến khi thi hành xong theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký giữa Ngân hàng và ông Hồ Sỹ C. Trường hợp Ông C không thực hiện việc trả nợ thì xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[4.1] Đối với khoản tiền gốc: Theo Hợp đồng tín dụng số LN2108274220339 ngày 30/8/2021 ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V-Chi nhánh Quảng Trvà ông Hồ Sỹ C, số tiền cho vay là 330.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng; mục đích sử dụng vốn vay: mua xe ô tô hiệu KIA. Ngày 30/8/2021, ông Hồ Sỹ C đã ký vào khế ước nhận tiền và đã nhận đủ toàn bộ số tiền vay là 330.000.000 đồng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V (VPBank)-Chi nhánh Quảng Tr. Như vậy, hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V – Chi nhánh Quảng Trvà ông Hồ Sỹ C được xác lập trên cơ sở tự nguyện, hình thức, nội dung và mục đích của hợp đồng vay tiền phù hợp với quy định tại Điều 463, 465 của Bộ luật dân sự. Do đó, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay sau khi ký hợp đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, Ông C đã trả số tiền gốc là 5.500.000 đồng, dư nợ gốc còn lại là 324.500.000 đồng. Từ ngày 05/11/2021 cho đến nay Ông C không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và thường xuyên quá hạn thanh toán. Do đó, Ông C đã vi phạm những điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận ký kết trong hợp đồng tín dụng và vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng nên Ngân hàng yêu cầu Ông C phải thanh toán tiền nợ gốc 324.500.000 đồng là có căn cứ và đúng pháp luật, cần buộc Ông C phải trả cho Ngân hàng toàn bộ khoản tiền gốc là 324.500.000 đồng.

[4.2] Đối với khoản tiền lãi:

Căn cứ Hợp đồng tín dụng số LN2108274220339 đã ký và giấy giải ngân ngày 31/8/2021, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V-Chi nhánh Quảng Trvà ông Hồ Sỹ C thoả thuận lãi suất cho vay là 6,8%/năm, lãi suất chậm trả 10%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn. Quá trình thực hiện hợp đồng, Ông C đã trả số tiền lãi là 2.155.021 đồng, Ông C không trả đủ tiền lãi hàng tháng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ không được Ngân hàng gia hạn nợ gốc. Theo bảng kê tính lãi chi tiết và bảng tổng hợp dư nợ của Ngân hàng thì các khoản tiền lãi được tính như sau:

- Tiền lãi trong hạn: Từ ngày 31/8/2021 đến ngày 04/11/2021: Tổng số tiền lãi Ông C phải trả cho Ngân hàng là 4.025.880 đồng. Ông C đã trả 2.155.021 đồng. Ông C còn phải trả số tiền còn lại là 1.870.858 đồng.

- Tiền lãi quá hạn tính từ ngày 05/11/2021 đến ngày 31/8/2022 với số tiền là 25.105.646 đồng - Tiền lãi chậm trả tính từ ngày 05/11/2021 đến ngày 31/8/2022 là 1.561.868 đồng.

Tổng cộng các khoản tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả là: 30.693.393 đồng.

Như vậy, sự thỏa thuận về lãi suất cho vay, lãi suất chậm trả, lãi suất nợ quá hạn giữa Ngân hàng và Ông C cũng như việc chuyển nợ đến hạn sang nợ quá hạn hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”, điểm b, c khoản 4 Điều 13 của Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả”; “Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn”. Theo điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn” nên phù hợp với sự thoả thuận giữa Ngân hàng và ông Hồ Sỹ C đã ký kết tại Điều 2 của Hợp đồng tín dụng và tại khoản 5 Điều 466, khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự nên được chấp nhận.

[4.3] Về trách nhiệm trả nợ: Từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên toà, bà Lê Thị Thanh H khÔng C ó bản trình bày ý kiến nộp cho Toà án và cũng khÔng C ó mặt tại phiên toà.

Xem xét hồ sơ vay vốn do Ngân hàng cung cấp thể hiện: Mặc dù Hợp đồng tín dụng số LN2108274220339 ngày 30/8/2021, giấy nhận nợ đều do ông Hồ Sỹ C đứng tên và ký nhận nhưng để đảm bảo cho khoản vay này thì ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H đã đồng ý ký hợp đồng thế chấp số LN2108274220339 ngày 30/8/2021 tài sản là 01 xe ô tô hiệu KIA biển kiểm soát 74A-xxx39 mang tên Hồ Sỹ C. Mặt khác, tại thời điểm vay vốn để mua xe ô tô thì Ông C và bà H đang tồn tại quan hệ vợ chồng nên cần buộc bà H phải cùng với Ông C thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng là phù hợp với quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 466, khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự, Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và điểm c khoản 4 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên được chấp nhận, cần buộc ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V tổng số tiền là 355.193.393 đồng trong đó tiền gốc là 324.500.000 đồng, tiền lãi là 30.693.393 đồng.

[4.4] Đối với Hợp đồng thế chấp tài sản:

Để đảm bảo hợp đồng vay, ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H đã ký hợp đồng thế chấp tài sản số LN2108274220339 ngày 30/8/2021, tài sản thế chấp là 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA, số khung RNYAB41M5MC221661; số máy: G4LCM1011414 biển kiểm soát 74A-xxx.39 theo giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 74004362 do Phòng cảnh sát giao thÔng C an tỉnh Quảng Trị cấp ngày 30/8/2021 cho ông Hồ Sỹ C nên việc thế chấp tài sản đảm bảo đúng quy định tại Điều 299, 317, khoản 1 Điều 318, Điều 319, khoản 7 Điều 323 Bộ luật dân sự. Do đó, Hợp đồng thế chấp tài sản số LN2108274220339 ngày 30/8/2021 có hiệu lực pháp luật. Trường hợp Ông C và bà H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gốc, tiền lãi thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 74A-xxx.39 do Phòng cảnh sát giao thÔng C an tỉnh Quảng Trị cấp ngày 30/8/2021 cho ông Hồ Sỹ C để thu hồi nợ.

[5] Về chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng yêu cầu Tòa án thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đối với ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H nên người yêu cầu là Ngân hàng phải chịu toàn bộ chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng với số tiền 2.754.500 đồng (đã nộp) theo quy định tại khoản 2 Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự.

[6] Về án phí: Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh nên ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 17.759.670 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 180, khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 317, khoản 1 Điều 318, Điều 319, khoản 7 Điều 323, Điều 299, Điều 463, Điều 465, Điều 466 Bộ luật dân sự; Điều 91, 95 Luật các tổ chức Tín dụng năm 2010, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V (VPBank). Buộc ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V số tiền gốc là 324.500.000 đồng và tiền lãi là 30.693.393 đồng. Tổng số tiền là 355.193.393 đồng (đã làm tròn số 355.193.000 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số LN2108274220339 ngày 30/8/2021 đã ký giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V với ông Hồ Sỹ C cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản số LN2108274220339 ngày 30/8/2021 đã ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V-Chi nhánh Quảng Trvới ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H không thanh toán khoản nợ gốc và lãi nêu trên thì Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Trị phát mãi tài sản đã thế chấp của ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H là xe ô tô nhãn hiệu KIA; số khung RNYAB41M5MC221661; số máy: G4LCM1011414; biển kiểm soát 74A-xxx.39 theo giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 74004362 do Phòng cảnh sát giao thÔng C an tỉnh Quảng Trị cấp ngày 30/8/2021 cho ông Hồ Sỹ C hiện ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H đang quản lý.

3. Về chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V phải chịu 2.754.500 đồng chi phí đăng phát thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. (Ngân hàng đã nộp đủ).

4. Về án phí: Buộc ông Hồ Sỹ C và bà Lê Thị Thanh H phải chịu 17.760.000 đồng (đã làm tròn số) án phí dân sự sơ thẩm.

- Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V số tiền tạm ứng án phí đã nộp 8.523.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000143 ngày 28/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Trị (số tiền tạm ứng án phí do Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V- Chi nhánh Quảng B nộp).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 14/2022/DS-ST

Số hiệu:14/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về