TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 127/2021/DS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TRANH CHÁP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 20 tháng 04 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 426/2020/TLST- DS ngày 20 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXST- DS ngày 02 tháng 03 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 50/2021/QĐST-DS ngày 24 tháng 03 năm 2021 giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ; địa chỉ trụ sở: Số 130 đường P, Phường 03, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ PGD Hóc Môn: Số 5/4 đường L, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lý Thành C, sinh năm 1996; địa chỉ: Số 42/1 Ấp 4, Xuân Thới Thượng, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền số 02/QĐ-DAB- HMN ngày 01/10/2020) (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2/ Bị đơn: Ông Trần Quang C, sinh năm 1974; địa chỉ: Số 837/7 (số cũ 37/258) đường Q, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 02 tháng 10 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Lý Thành Công trình bày:
Ngày 07/02/2017 giữa Ngân hàng TMCP Đ - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh - Phòng giao dịch Bưu điện Hóc Môn (sau đây được viết tắt là Ngân hàng) và ông Trần Quang C có ký Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ với nội dung Ngân hàng cho ông C vay số tiền 70.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, số tiền trả góp mỗi tháng là 2.450.000 đồng, lãi suất 8%/năm, mục đích vay tiêu dùng cá nhân. Từ ngày 10/02/2017 đến ngày 24/11/2017 ông C chỉ trả cho Ngân hàng được số tiền 19.600.000 đồng, gồm nợ gốc là 13.041.441 đồng và lãi trong hạn 6.558.559 đồng. Quá trình thực hiện nghĩa vụ trả nợ ông C không trả gốc và lãi đúng thời hạn, liên tục chậm thanh toán. Do đó, ngày 10/12/2017 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ dư nợ gốc sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 19/4/2021 ông C còn nợ Ngân hàng tổng số tiền 82.784.384 đồng, trong đó bao gồm nợ gốc 56.958.559 đồng, lãi trong hạn 10.241.441 đồng và lãi quá hạn 15.584.384 đồng.
Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa đưa vụ án ra xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn ông Trần Quang C có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ nêu trên cho Ngân hàng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật; yêu cầu bị đơn tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh kể từ ngày 20/4/2021 theo mức lãi suất do các bên thoả thuận tại Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 07/02/2017 cho đến khi thanh toán xong nợ.
Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng không giao nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo; đồng thời vắng mặt không lý do trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền của Toà án:
Tranh chấp giữa các bên là tranh chấp Hợp đồng tín dụng; theo Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 07/02/2017 thể hiện bị đơn cư trú tại địa chỉ số 37/258 đường Q, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo kết quả xác minh tại địa phương bị đơn có hộ khẩu thường trú nhưng không thực tế cư trú tại địa chỉ nêu trên. Việc bị đơn thay đổi nơi cư trú mà không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ, nên địa chỉ số 37/258 đường Q, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh được xác định là nơi cư trú cuối cùng của bị đơn. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Về người tham gia tố tụng:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa đưa vụ án ra xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn:
Căn cứ vào Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 07/02/2017; căn cứ vào lời trình bày của đại diện nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở để khẳng định:
Về yêu cầu đòi nợ gốc: Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ trên do bị đơn là ông Trần Quang C ký với Ngân hàng TMCP Đ - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh - Phòng giao dịch Bưu điện Hóc Môn. Sau khi vay bị đơn chỉ thanh toán cho Ngân hàng được 19.600.000 đồng, trong đó bao gồm nợ gốc là 13.041.441 đồng và lãi trong hạn 6.558.559 đồng, hiện bị đơn còn nợ số tiền gốc là 56.958.559 đồng, mặc dù được Ngân hàng nhiều lần nhắc nhở nhưng bị đơn vẫn không thanh toán nên yêu cầu đòi nợ gốc của nguyên đơn là có cơ sở.
Về yêu cầu tính lãi: Tại mục 3 của Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ đã ký, bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng nợ gốc và lãi trong hạn nhưng do bị đơn không thực hiện nên ngày 10/12/2017 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số tiền nợ còn lại thành nợ quá hạn và tính lãi theo lãi suất các bên đã thỏa thuận với mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; tiền lãi tính đến ngày 19/4/2021 với tổng số tiền là 25.825.825 đồng, trong đó bao gồm lãi trong hạn 10.241.441 đồng và lãi quá hạn 15.584.384 đồng; đồng thời yêu cầu bị đơn tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh kể từ ngày 20/4/2021 theo mức lãi suất do các bên thoả thuận tại Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 07/02/2017 cho đến khi thanh toán xong nợ là có cơ sở.
Về phía bị đơn mặc dù đã được Tòa tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xét xử vụ án.
Xét thấy, việc các bên ký kết Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ theo các điều khoản thỏa thuận là hoàn toàn tự nguyện ; mặc dù nguyên đơn nhiều lần nhắc nhở nhưng bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Do đó, căn cứ vào các Điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Hội đồng xét xử nhận thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn có nghĩa vụ phải thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền 82.784.384 đồng; trong đó bao gồm nợ gốc 56.958.559 đồng, lãi trong hạn 10.241.441 đồng và lãi quá hạn 15.584.384 đồng ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; cụ thể: Bị đơn phải chịu tiền án phí là 4.139.219 đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm nên được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 147, 227, 228, 271, 273 và Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ các điều 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014);
- Căn cứ Luật án phí, lệ phí năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Buộc bị đơn là ông Trần Quang C có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng TMCP Đ tổng số tiền nợ tính đến ngày 19/4/2021 theo Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 07/02/2017 là 82.784.384 (tám mươi hai triệu bảy trăm tám mươi bốn ngàn ba trăm tám mươi bốn) đồng; trong đó bao gồm nợ gốc 56.958.559 (năm mươi sáu triệu chín trăm năm mươi tám ngàn năm trăm năm mươi chín) đồng, lãi trong hạn 10.241.441 (mười triệu hai trăm bốn mươi mốt ngàn bốn trăm bốn mươi mốt) đồng và lãi quá hạn 15.584.384 (mười lăm triệu năm trăm tám mươi bốn ngàn ba trăm tám mươi bốn) đồng.
Thời hạn thanh toán: Ngay sau khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Quang C phải chịu án phí là 4.139.219 (bốn triệu một trăm ba mươi chín ngàn hai trăm mười chín) đồng.
Hoàn lại tiền tạm ứng án phí 1.975.628 (một triệu chín trăm bảy mươi lăm ngàn sáu trăm hai mươi tám) đồng cho Ngân hàng TMCP Đ theo biên lai thu số AA/2019/0027403 ngày 20/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp.
3. Về nghĩa vụ thi hành án:
3.1 Kể từ ngày 20/4/2021 bị đơn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ký ngày 07/02/2017 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.
3.2 Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 127/2021/DS-ST
Số hiệu: | 127/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về