Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 11/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KBANG, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 11/2023/DS-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24/7/2023, tại trụ sở TAND huyện Kbang, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 11/2023/TLST-DS ngày 10/02/2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

10/2023/QĐXXST - DS ngày 09/6/2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 08/2023/QĐST-DS ngày 04/7/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng C.

Địa chỉ: Tòa nhà CC5, bán đảo L, quận H, TP. Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền là bà Đinh Thị Thu H, chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.

Địa chỉ: Số 265 Q, thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1982; Địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai.

Bà H vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; ông B vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/01/2023 được bổ sung tại Bản tự khai ngày 10/02/2023, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Đinh Thị Thu H trình bày:

Ngày 18/01/2021, ông Nguyễn Thanh B đã vay vốn tín dụng ưu đãi của Ngân hàng C (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) thông qua Phòng giao dịch huyện Kbang, tỉnh Gia Lai với số tiền nợ gốc là 30.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 34/2021/HĐ – TD ngày 16/01/2021 (áp dụng cho vay đối với người lao động); mục đích sử dụng tiền vay: Trồng cà phê, thời hạn vay là 60 tháng kể từ ngày 18/01/2021, lãi suất cho vay là 7,92%/năm, lãi suất quá hạn là 10,296%/năm, hình thức bảo đảm tiền vay: Cho vay tín chấp.

Theo thỏa thuận với Ngân hàng tại thời điểm vay thì hàng tháng ông B phải nộp lãi cho Ngân hàng nhưng đến nay ông chưa trả lãi cho Ngân hàng, mặc dù Ngân hàng đã đôn đốc, nhắc ông B trả nợ lãi theo kỳ hạn đã cam kết. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn ông B phải trả cho Ngân hàng 30.000.000 đồng nợ gốc, 2.385.113 đồng nợ lãi trong hạn tính đến ngày 09/01/2023, tổng cộng là 32.385.113 đồng.

Tại Bảng kê tính lãi bổ sung, Ngân hàng bổ sung yêu cầu ông B phải trả thêm số tiền nợ lãi trong hạn phát sinh từ ngày 10/01/2023 đến ngày 24/7/2023 (ngày xét xử sơ thẩm vụ án) là 1.269.730. Như vậy, Ngân hàng yêu cầu ông B phải trả nợ tổng cộng là 33.654.843 đồng, gồm: Nợ gốc là 30.000.000 đồng và nợ lãi trong hạn là 3.654.843 đồng (tính đến ngày 24/7/2023) cũng như trả số tiền nợ lãi phát sinh từ ngày 25/7/2023 cho đến khi ông trả xong nợ.

Các tài liệu, chứng cứ được nguyên đơn giao nộp, gồm:

- 01 Quyết định về việc ủy quyền tham gia tố tụng và thi hành án số 7300/QĐ-NHCS ngày 19/9/2019 của Ngân hàng C (bản sao);

- 01 Hợp đồng tín dụng số 34/2021/HĐ-TD ngày 16/01/2021 giữa bên vay là ông Nguyễn Thanh B và bên cho vay là Ngân hàng CSXH huyện Kbang (bản sao);

- 01 Giấy đề nghị vay vốn của ông Nguyễn Thanh B (bản sao).

- 02 bảng kê tính lãi (bản chính).

Đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh B: Sau khi thụ lý vụ án, TAND huyện Kbang, tỉnh Gia Lai đã triệu tập ông B đến Tòa án làm việc để nhận Thông báo thụ lý vụ án, làm Bản tự khai trình bày quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hoà giải do Toà án tổ chức nhưng ông không chấp hành có mặt làm việc.

Do vụ án không tiến hành công khai chứng cứ và hoà giải được vì ông B vắng mặt nên Toà án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa lần thứ nhất mở vào ngày 04/7/2023 và tại phiên tòa hôm nay, mặc dù Toà án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập đương sự tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng ông B luôn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo như quy định tại các Điều 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015.

Tại phiên tòa, KSV phát biểu quan điểm của VKSND huyện Kbang, tỉnh Gia Lai về việc giải quyết vụ án như sau:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS năm 2015; bị đơn không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS năm 2015.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ các Điều 26, 35, 39, 91, 93, 94, 95, 96, 108, 144, 147, 179, 180, 227, 228, 238 và 266 của BLTTDS năm 2015; các Điều 117, 118, 119, 280, 357, 463, 466, 468 và 470 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng C thông qua Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Buộc bị đơn ông Nguyễn Thanh B phải trả cho Ngân hàng thông qua Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Kbang, tỉnh Gia Lai số tiền là 33.654.843 đồng, gồm: 30.000.000 đồng nợ gốc và 3.654.843 đồng nợ lãi trong hạn (tính đến ngày 24/7/2023) cũng như trả số tiền nợ lãi phát sinh từ ngày 25/7/2023 cho đến khi ông B trả xong nợ.

Buộc ông B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) theo quy định. Ngân hàng được hoàn trả tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự:

Ngân hàng C khởi kiện yêu cầu người vay là ông Nguyễn Thanh B có địa chỉ tại Thôn X, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai phải trả số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 34/2021/HĐ - TD ngày 16/01/2021 đã ký kết. Do đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai thông báo, tống đạt và niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng để triệu tập ông B đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn nhưng ông B đều vắng mặt không có lý do và cũng không ủy quyền cho ai tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng là bà Đinh Thị Thu H vắng mặt nhưng bà H có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại các Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, HĐXX thấy rằng: Chứng cứ do Ngân hàng cung cấp là Hợp đồng tín dụng số 34/2021/HĐ - TD ngày 16/01/2021 (áp dụng cho vay đối với người lao động) cùng Giấy đề nghị vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm ngày 14/01/2023 của ông B đã thể hiện vào ngày 18/01/2021 ông B có vay vốn tín dụng ưu đãi của Ngân hàng thông qua Phòng giao dịch huyện Kbang, tỉnh Gia Lai với số tiền nợ gốc là 30.000.000 đồng; mục đích sử dụng tiền vay: Trồng cà phê, thời hạn vay là 60 tháng kể từ ngày 18/01/2021, lãi suất cho vay là 7,92%/năm, lãi suất quá hạn là 10,296%/năm, hình thức bảo đảm tiền vay: Cho vay tín chấp. Ông B phải trả lãi đối với khoản vay theo phương thức hàng tháng. Tất cả các điều kiện trên của bên cho vay (Ngân hàng) đối với bên vay (ông B) đã được ông B ký xác nhận.

Tuy nhiên, kể từ khi vay vốn cho đến nay, ông B sử dụng vốn vay không hiệu quả, không trả được nợ lãi theo đúng cam kết nên ông đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tính đến thời điểm ngày 24/7/2023 (thời điểm xét xử sơ thẩm), ông B còn nợ Ngân hàng là 30.000.000 đồng nợ gốc và 3.654.843 đồng nợ lãi trong hạn. Vì vậy, việc Ngân hàng khởi kiện ông B để thu hồi nợ là có căn cứ, đúng pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, ông B không hợp tác làm việc, thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú gây khó khăn cho việc tống đạt giấy tờ nên Toà án không thể tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng cho ông B được. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng ông luôn vắng mặt khi Tòa án triệu tập làm việc, không chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, từ chối bỏ quyền tham gia tố tụng của mình, điều này đã thể hiện rõ việc ông có vay nợ tiền của Ngân hàng nên ông phải có nghĩa vụ trả nợ.

Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc ông B phải trả nợ cho Ngân hàng với số tiền nợ gốc là 30.000.000 đồng và nợ lãi trong hạn (tính đến ngày 24/7/2023) là 3.654.843 đồng, tổng cộng là 33.654.843 đồng.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm (DSST): Do yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn ông B phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật là 33.654.843 đồng x 5% = 1.682.742 đồng.

Hoàn trả cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 93; Điều 94; Điều 95; Điều 96; Điều 108; Điều 144, Điều 147; Điều 179; Điều 180; Điều 227; Điều 228; Điều 238, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 280, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng C, buộc bị đơn ông Nguyễn Thanh B phải trả cho Ngân hàng thông qua Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Kbang, tỉnh Gia Lai số tiền nợ phát sinh từ hợp đồng tín dụng là 33.654.843 đồng (Ba mươi ba triệu, sáu trăm năm mươi bốn nghìn, tám trăm bốn mươi ba đồng), gồm: 30.000.000 đồng nợ gốc và 3.654.843 đồng nợ lãi trong hạn (tính đến ngày 24/7/2023).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Về án phí DSST: Buộc bị đơn ông Nguyễn Thanh B phải chịu 1.682.742 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Ngân hàng hàng C thông qua Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Kbang, tỉnh Gia Lai số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 809.627 đồng theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số: 0003746 ngày 08/02/2023 của Chi cục THADS huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự (LTHADS) thì người được thi hành án dân sự (THADS), người phải THADS có quyền thoả thuận thi hành án (THA), quyền yêu cầu THA, tự nguyện THA hoặc bị cưỡng chế THA theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của LTHADS; thời hiệu THA được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của LTHADS./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 11/2023/DS-ST

Số hiệu:11/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện KBang - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về