Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2023/KDTM-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 09/2023/KDTM-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 14/2023/TLST-KDTM ngày 06 tháng 7 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST-KDTM ngày 08 tháng 9 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2023/QĐST-KDTM ngày 22 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ trụ sở chính: 25Bis Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bến Nghé, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quốc Th, Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Trần Đức T, chuyên viên tín dụng chi nhánh Quảng Trị H (văn bản ủy quyền, số 112/2023/UQ-HDB, ngày 26/5/2023), có mặt.

Bị đơn: Ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M cùng địa chỉ: Khu phố M, Phường 1, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN Trong đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung ngày 22/6/2023, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh trình bày:

Ngày 24/01/2022, ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M đã ký kết Hợp đồng tín dụng hạn mức số 2170/22MB/HĐTD với Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh (H) để vay số tiền 2.000.000.000 đồng. Mục đích vay: Cho vay bổ sung vốn lưu động kinh doanh áo quần sơ sinh, sữa, thực phẩm, đồ dùng cho mẹ và bé, đồ chơi trẻ em. Ngày giải ngân 25/01/2022, ngày đến hạn 25/01/2023, lãi suất 9%.

Khoản vay trên được bảo đảm bằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 2170/22MB/HĐBĐ ngày 24/01/2022 có bên thế chấp là ông Trương Minh H, bà Trình Thị Thùy M và bên nhận thế chấp là H. Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất tại thửa số 475, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: khu phố 6, Phường 3, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DB810700 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị cấp ngày 24//12/2021 cho ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M. Hợp đồng được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định.

Đến nay Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nợ nhưng ông Hoàng bà Mỵ vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, vi phạm nghĩa vụ đã cam kết tại hợp đồng. Tính đến ngày 28/9/2023, ông Hoàng, bà Mỵ còn nợ H số tiền 2.290.753.637 đồng.

Nay Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh khởi kiện yêu cầu Tòa án:

- Buộc ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M phải thanh toán ngay một lần toàn bộ nợ gốc và lãi cho H theo hợp đồng tín dụng nêu trên với tổng số tiền là 2.290.753.637 đồng (Hai tỷ hai trăm chín mươi triệu bảy trăm năm mươi ba nghìn sáu trăm ba mươi bảy) đồng, gồm nợ gốc 1.999.999.952 đồng, lãi trong hạn 20.651.370 đồng, lãi quá hạn 270.102.315 đồng (lãi vay tính đến ngày 28/9/2023).

- Buộc ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M phải thanh toán phần nợ lãi phát sinh đối với số nợ còn lại theo mức lãi suất quá hạn thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết với H từ ngày 29/9/2023 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

- Trường hợp ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho H thì đề nghị Tòa án cho Ngân hàng yêu cầu thi hành án phát mãi toàn bộ tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất tại thửa số 475, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: khu phố 6, Phường 3, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DB810700 để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Toàn bộ số tiền thu được từ việc phát mãi tài sản đảm bảo được dùng để cấn trừ nghĩa vụ trả nợ của ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M. Nếu số tiền phát mãi tài sản đảm bảo không đủ thanh toán hết khoản nợ của ông Hoàng, bà Mỵ thì ông H, bà M vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ.

Bị đơn ông H, bà M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng không có văn bản trình bày ý kiến và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn vi phạm Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông H, bà M phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi tính đến ngày 28/9/2023 cho cho nguyên đơn với tổng số tiền là 2.290.753.637 đồng gồm nợ gốc 1.999.999.952 đồng, lãi trong hạn 20.651.370 đồng, lãi quá hạn 270.102.315 đồng.

Về chi phí tố tụng: Bị đơn phải chịu án phí và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xem xét việc vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Bị đơn ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Mục đích vay tiền của ông Hoàng, bà Mỵ là bổ sung vốn lưu động kinh doanh áo quần sơ sinh... Do đó xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” được thụ lý và giải quyết bằng vụ án kinh doanh thương mại theo theo khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

[2] Về nội dung:

1. Xem xét nội dung Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh (H) với ông H, bà M thấy:

Ngày 24/01/2022, ông H và bà M đã ký kết Hợp đồng tín dụng hạn mức số 2170/22MB/HĐTD với Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh (H) để vay số tiền 2.000.000.000 đồng. Ngày 25/01/2022, Ngân hàng đã giải ngân số tiền 2.000.000.000 đồng, ngày đến hạn là ngày 25/01/2023. Lãi trả một tháng/lần vào ngày 25 hàng tháng.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán gốc và lãi từ ngày 25/01/2023. Theo các Điều 6, 7, 8 của Hợp đồng tín dụng Ngân hàng có quyền khởi kiện nếu bên được cấp tín dụng vi phạm hợp đồng. Căn cứ thỏa thuận trên thì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán gốc và lãi từ ngày 25/01/2023 do đó Ngân hàng khởi kiện là có cơ sở. Theo đó buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc là 1.999.999.952 đồng.

Về tiền lãi: Mức lãi suất trong hạn thỏa thuận theo hợp đồng là 9%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất...”. Căn cứ thỏa thuận về lãi suất được ký kết hai bên thấy rằng mức lãi suất thỏa thuận như trên phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận yêu của nguyên đơn, buộc ông H, bà M phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi tính đến ngày 28/9/2023 là 290.753.685 đồng, trong đó lãi trong hạn 20.651.370 đồng, lãi quá hạn 270.102.315 đồng.

Buộc ông H, bà M có nghĩa vụ trả số tiền lãi phát sinh từ ngày 29/9/2023 cho đến khi trả hết nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng hạn mức số 2170/20MB/HĐTD/KUNN01 ngày 24/01/2022.

Trường hợp ông H, bà M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ, H có quyền tự xử lý tài sản hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản đã thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa số 475, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: khu phố 6, Phường 3, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DB810700 do Sở Tài nguyên và Môi Trường Quảng Trị cấp ngày 24/12/2021 mang tên Nguyễn Hoàng L, được chỉnh lý sang tên ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M ngày 10/01/2022 để thu hồi nợ.

[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 900.000 đồng (chín trăm nghìn) đồng, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải chịu toàn bộ và hoàn trả lại cho nguyên đơn. Thấy rằng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của nguyên đơn là có căn cứ nên bị đơn phải có nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, số tiền này nguyên đơn đã tạm nộp nên buộc bị đơn có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn.

3. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 299, 317, 319, 320, 323, 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị đơn ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh tổng số tiền là 2.290.753.637 đồng (hai tỷ hai trăm chín mươi triệu bảy trăm năm mươi ba nghìn sáu trăm ba mươi bảy) đồng, gồm nợ gốc 1.999.999.952 đồng và tiền lãi tính đến ngày 28/9/2023 là 290.753.685 đồng.

Buộc ông H, bà M có nghĩa vụ trả số tiền lãi phát sinh từ ngày 29/9/2023 cho đến khi trả hết nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng hạn mức số 2170/22MB/HĐTD ngày 24/01/2022.

Trường hợp ông H, bà M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ, H có quyền tự xử lý tài sản hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản đã thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa số 475, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: khu phố 6, Phường 3, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DB810700 do Sở Tài nguyên và Môi Trường Quảng Trị cấp ngày 24/12/2021 mang tên Nguyễn Hoàng L, được chỉnh lý sang tên ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M ngày 10/01/2022 theo hợp đồng thế chấp số 2170/22MB/HĐBĐ ngày 24/01/2022 để thu hồi nợ.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

2. Về chi phí đo đạc xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Buộc ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M phải chịu và có nghĩa vụ phải hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam số tiền 900.000 đồng (Chín trăm ngàn đồng).

3. Về án phí:

- Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh không phải chịu án phí. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh số tiền tạm ứng án phí là 37.800.560 (ba mươi bảy triệu tám trăm nghìn năm trăm sáu mươi) đồng đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000855 ngày 04/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

- Bị đơn ông Trương Minh H và bà Trình Thị Thùy M phải chịu 77.815.000 (bảy mươi bảy triệu tám trăm mười lăm nghìn) đồng án phí kinh doanh thương mai sơ thẩm.

3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2023/KDTM-ST

Số hiệu:09/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về