Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2022/DS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 63/2020/TLST- DS ngày 22 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2022/QĐXX-DS ngày 23 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 63a/2022/QĐST-DS ngày 22/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (viết tắt Agribank Việt Nam); Địa chỉ: Số ** phố L, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đại diện theo ủy quyền ký đơn khởi kiện: Ông Trần Văn Đ – Giám đốc Chi nhánh Agribank huyện Chư Păh Đông Gia Lai. Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Ngô Đình N - Trưởng phòng Kế hoạch kinh doanh- Chi nhánh Agribank huyện Chư Păh Đông Gia Lai, theo Giấy ủy quyền số: 332A/NHNoCP.ĐGL-GUQ ngày 02 tháng 12 năm 2021. (có mặt) Địa chỉ: Số ** đường H, thị trấn Phú Hòa, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai

- Bị đơn: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 7, xã I, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30/10/2021, nộp trực tiếp ngày 16/11/2021, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Ngô Đình Nghĩa trình bày :

Ngày 19 tháng 12 năm 2017, bà Bùi Thị H đã ký kết Hợp đồng tín dụng số: 2267/HĐTD vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Huyện Chư Păh Đông Gia Lai (viết tắc là Ngân hàng), số tiền vay: 150.000.000 VND, lãi suất 10,5%/năm, thời hạn vay là 12 tháng. Lần nhận nợ sau cùng ngày 26/12/2019, hạn trả nợ cuối cùng là 26/12/2020. Mục đích vay: Chăm sóc cà phê và chăn nuôi bò thịt.

Biên pháp bảo đảm: Thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 596669 do Ủy ban nhân dân huyện Chư Păh cấp cho hộ ông Lê T và bà Bùi Thị H ngày 14/9/2010 tại Thôn 7, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Đất có diện tích 476m2(đất ở tại nông thôn 100m2, đất trồng cây lâu năm 376m2).

Khoản vay đã chuyển thành nợ quá hạn vào ngày 26/12/2020, tuy nhiên do trùng vào ngày nghỉ cuối tuần nên chuyển nợ quá hạn vào ngày 29/12/2020. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nợ khách hàng bằng biên bản yêu cầu khách hàng vay trả khoản nợ quá hạn tại Ngân hàng. Hiện tại, bà Bùi Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.

Tính đến ngày 20/7/2022, bà Bùi Thị H còn nợ: 201.031.849 đồng (Bằng chữ: Hai trăm lẻ một triệu không trăm ba mươi mốt ngàn tám trăm bốn mươi chín đồng). Bao gồm: Nợ gốc: 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), nợ lãi: 51.031.849 đồng, (trong đó: Nợ lãi trong hạn: 15.922.603 đồng; Nợ lãi quá hạn: 35.109.246 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 21/7/2022 đến khi trả nợ xong theo hợp đồng tín dụng đã ký kết và các khoản án phí, phí thi hành án, phí phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay.

Nay tôi đề nghị Tòa án buộc bà Bùi Thị H phải thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam thông qua Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai, số tiền nợ của khoản vay trên tính đến ngày 20/7/2022 là: 201.031.849 đồng và lãi phát sinh đến ngày thanh toán nợ xong cho ngân hàng.

Nếu bà Bùi Thị H không thực hiện thanh toán nợ cho Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam thì đề nghị cơ quan chức năng xử lý tài sản theo Hợp đồng thế chấp đã ký kết để thu hồi nợ vay cho Ngân hàng.

Về án phí và các chi phí thẩm định tại chỗ yêu cầu buộc bà Bùi Thị H phải chịu.

+Bị đơn: Bà Bùi Thị H vắng mặt không có lý do các phiên hòa giải, công khai chứng cứ và tại phiên tòa.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng theo quy định nhưng bị đơn không có mặt ở nhà. Tòa án tổ chức phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn bà Bùi Thị H không đến. Tòa án đã thông báo, niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo đúng quy định pháp luật, nhưng đến phiên tòa xét xử lần thứ hai bị đơn không đến Tòa án và cũng không trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

*Ý kiến, quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh về quá trình giải quyết vụ án:

I. Việc tuân theo pháp luật tố tụng.

1. Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ, công khai chứng cứ, hòa giải, tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về xác định quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Tòa án nhân dân huyện Chư Păh xác định “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” và thẩm quyền thụ lý theo quy định tại Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 là đúng.

-Về xác định tư cách tham gia tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Chư Păh xác định nguyên đơn, bị đơn đúng và đầy đủ.

-Hội đồng xét xử , Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

Đại diện nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn bà Bùi Thị H, dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ các thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và thông báo về việc tiến hành thẩm định tại chỗ nhưng bà Bùi Thị H không đến Tòa án để giải quyết vụ án, và cũng không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án như vậy bà Bùi Thị H đã không chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS năm 2015.

II. Ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Trên cơ sở các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai với bà Bùi Thị H đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 2267/HĐTD ngày 19/12/2017, trong đó: Số tiền vay: 150.000.000 đồng, hạn trả nợ cuối cùng ngày 19/12/2020 là có thật. Đây là giao dịch dân sự được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình quan hệ tín dụng, đến nay bà Bùi Thị H còn nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai tính đến ngày 20/7/2022, số tiền: 201.031.849 đồng. Bao gồm: Nợ gốc: 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), nợ lãi: 51.031.849 đồng. (trong đó: Nợ lãi trong hạn 15.922.603 đồng; Nợ lãi quá hạn 35.109.246 đồng). Việc bà Bùi Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả gốc và lãi đúng hạn là vi phạm nghĩa vụ được quy định Điều 6 và Điều 7 của Hợp đồng và Điều 280 BLDS. Căn cứ quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 BLDS; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng, xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ, cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, buộc bà Bùi Thị H phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai tính đến ngày 20/7/2022, là: 201.031.849 đồng và tiền lãi phát sinh đến ngày bà Bùi Thị H trả hết nợ gốc và lãi trong Hợp đồng.

Trong trường hợp bà Bùi Thị H không thực hiện việc thanh toán nợ cho Ngân hàng, căn cứ Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 1273/HĐTC, được chứng thực tại UBND xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai ngày 19/12/2017, căn cứ quy định tại Điều 299, 323 BLDS năm 2015, Ngân hàng Agribank có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay cho Ngân hàng.

* Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Áp dụng quy định tại Điều 157, 158 BLTTDS, buộc bị đơn bà Bùi Thị H phải chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Bà Bùi Thị H có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng Agribank toàn bộ số tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ đã nộp.

*Về án phí: Áp dụng Điều 147 BLTTDS 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bà Bùi Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Trả lại cho Ngân hàng Agribank số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật: Hợp đồng tín dụng số: 2267/HĐTD ngày 19/12/2017, với số tiền vay: 150.000.000 VND, hạn trả nợ cuối cùng là 26/12/2020, mục đích chăm sóc cà phê và chăn nuôi, được ký kết giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua Chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai với bà Bùi Thị H. Đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng tín dụng, bị đơn cư trú, sinh sống và tài sản thế chấp tại huyện Chư Păh. Hình thức, nội dung khởi kiện đúng quy định. Theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 và Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đơn khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được Tòa án nhân dân huyện Chư Păh chấp nhận thụ lý giải quyết.

Bị đơn, bà Bùi Thị H vắng mặt. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng bằng hình thức niêm yết công khai nhưng bà Bùi Thị H không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án nên không thể tiến hành hòa giải để hai bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn bà Bùi Thị H vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu nguyên đơn, buộc bà Bùi Thị H phải thanh toán nợ vay cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai tính đến ngày 20/7/2022 là: 201.031.849 đồng và lãi phát sinh cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng.

Xét Hợp đồng tín dụng số: 2267/HĐTD ngày 19/12/2017, với số tiền vay:

150.000.000 VND, hạn trả nợ cuối cùng là 26/12/2020, thì bà Bùi Thị H trực tiếp ký hợp đồng tín dụng nêu trên, ký nhận tiền vay, mục đích vay để bổ sung vốn chăm sóc cây cà phê và chăn nuôi. Về hình thức và nội dung của hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa các bên phù hợp với quy định tại các Điều 116, 117, 118, 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật các tổ chức tín dụng. Hợp đồng tín dụng này có hiệu lực pháp luật, các bên phải thực hiện. Do bà Bùi Thị H vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn yêu cầu bà Bùi Thị H phải trả số tiền gốc và tiền lãi phát sinh đến ngày bà Bùi Thị H thanh toán hết số nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký là có căn cứ.

Căn cứ quy định của Bộ Luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng, quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, buộc bà Bùi Thị H phải thanh toán tổng nợ khoản vay số tiền tính đến ngày 20/7/2022 là: 201.031.849 đồng (Hai trăm lẻ một triệu không trăm ba mươi mốt ngàn tám trăm bốn mươi chín đồng). Bao gồm: Nợ gốc: 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), nợ lãi: 51.031.849 đồng (trong đó: lãi trong hạn: 15.922.603 đồng; lãi quá hạn: 35.109.246 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 21/7/2022, cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ cho Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký.

Xét hợp đồng thế chấp tài sản: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 1273/HĐTC, được chứng thực tại UBND xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai ngày 19/12/2017. Bà Bùi Thị H thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (tài sản thực tế trong biên bản thẩm định tại chỗ ngày 29/12/2021) theo Giấy Chứng nhận QSDĐ số BD 596669, do Ủy ban nhân dân huyện Chư Păh cấp cho ông Lê T và bà Bùi Thị H ngày 14/09/2010, để thừa kế toàn bộ cho bà H ngày 18/11/2016, địa chỉ thửa đất tại thôn 7, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai, trong đó: diện tích đất ở: 100 m2; đất trồng cây lâu năm là 376 m2, trên đất có căn nhà cấp 4. Bà Bùi Thị H đã tự nguyện đem tài sản nói trên là tài sản của cá nhân mình bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho khoản nợ vay (gồm nợ gốc, lãi trong hạn, quá hạn, lãi phạt hạn và các khoản chi phí khác). Hợp đồng này có nội dung, hình thức và được đăng ký giao dịch đảm bảo theo đúng quy định tại các Điều 298, 318, 319, 398 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 3 Điều 167, Điều 188 Luật Đất đai 2013. Do đó Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực pháp luật, bà Bùi Thị H phải thực hiện các thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp tài sản này. Nếu bà Bùi Thị H không trả hết các khoản nợ thì Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản nêu trên để thu hồi nợ theo quy định tại các Điều 299, 320, 321, 322, 323 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 và các quy định khác về giao dịch bảo đảm.

[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm: 201.031.849 đ x 5% = 10.051.592 đồng (làm tròn là 10.052.000 đồng). Trả lại số tiền tạm ứng của nguyên đơn đã nộp.

[4] Về chi phí xem xét thẩm định: Tổng chi phí là 3.000.000 đồng. Trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai đã nộp tạm ứng chi phí. Căn cứ theo Điều 157, Điều 158 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015, buộc bên bị đơn bà Bùi Thị H phải chịu tất cả chi phí tố tụng này. Bà Bùi Thị H phải trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai 3.000.000 đ (ba triệu đồng) chi phí này.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157; Điều 158; Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 280, 295, 299, 307, 319, 320, 321, 322, 323, 463, 466, 468 và Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam;

Buộc bà Bùi Thị H phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai số tiền nợ gốc và tiền lãi của Hợp đồng tín dụng số: 2267/HĐTD ngày 19/12/2017, với số tiền tính đến ngày 20 tháng 7 năm 2022 là: 201.031.849 đồng (Hai trăm lẻ một triệu không trăm ba mươi mốt ngàn tám trăm bốn mươi chín đồng). Trong đó nợ gốc: 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), nợ lãi: 51.031.849 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (21/7/2022), bà Bùi Thị H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số: 2267/HĐTD ngày 19/12/2017, cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Nếu bà Bùi Thị H không trả được hoặc trả không đầy đủ khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý các tài sản bảo đảm đã thế chấp của bà Bùi Thị H theo Hợp đồng thế chấp tài sản số: 1273/HĐTC, được chứng thực tại UBND xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai ngày 19/12/2017, để thu hồi nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai.

3. Về án phí: Bà Bùi Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm: 10.052.000 đồng (mười triệu không trăm năm mươi hai ngàn đồng).

Hoàn trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai 4.626.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh theo biên lai thu số 0007047, ngày 19 tháng 11 năm 2021.

4. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Bùi Thị H phải chịu chi phí thẩm định là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), để trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).

Đối với trường hợp bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy đinh tại Điều 357 của Bộ luật dân sự. Trường hợp được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay (20/07/2022), nguyên đơn, có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2022/DS-ST

Số hiệu:09/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về