Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 05/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 05/2022/DS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24/3/2022, tại Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 89/2021/TLST-DS ngày 14 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST-DS ngày 14/02/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần A; Địa chỉ: B đường K, Phường N, Quận B, Thành phố H.

Ngưi đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Huỳnh Hoàng S, chức vụ: Trưởng bộ phận tín dụng Phòng giao dịch huyện C (Theo văn bản uỷ quyền ngày 11/5/2021) Địa chỉ: Số B đường H, Thị trần Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Văn P, sinh năm 1990 và bà Huỳnh Thị Thanh H, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Thôn N, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 11/10/2021, trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm – Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Huỳnh Hoàng S trình bày:

Ngày 21/11/2019, Ngân hàng Thương mại cổ phần A (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) với vợ chồng ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H có ký Hợp đồng vay cấp tín dụng và khế ước nhận nơ (số tham chiếu 296676289) số QPH.CN.1772.211119 số tiền là 200.000.000 đồng; thời hạn vay 12 tháng; mục đích cho vay để sản xuất kinh doanh, bổ sung mua bán nông sản, lãi suất cho vay 11%/năm, lãi suất cố định 3 tháng đầu tiên, sau đó lãi suất được thay đổi định kỳ 03 tháng/lần, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, kể từ thời điểm chuyển nợ quá hạn.

Để đảm bảo cho các khoản vay trên, vợ chồng ông P, bà H ký kết với Ngân hàng Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số QPH.BĐCN.260.281117 ngày 29/11/2017 thế chấp tài sản là:

Thửa đất số 24, tờ bản đồ số 79, diện tích 11830.1m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 651004 do UBND huyện C cấp ngày 10/01/2017 mang tên ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H, địa chỉ thửa đất tại: xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng tính dụng, đến ngày 23/8/2020, thì Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn, do vi phạm trả gốc và lãi; tính đến ngày 24/3/2022, vợ chồng ông P, bà H còn nợ Ngân hàng là 267.924.343 đồng, (trong đó: nợ gốc là 200.000.000 đồng, nợ lãi là 67.924.343 đồng).

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc vợ chồng ông P, bà H phải trả tiền vay gốc và lãi còn nợ theo:

Hợp đồng vay cấp tín dụng và khế ước nhận nợ số QPH.CN.1772.211119 ngày 21/11/2019 là 200.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 25/3/2022 cho đến khi trả xong nợ.

Trường hợp vợ chồng ông P, bà H không thanh toán được nợ cho Ngân hàng, đề nghị Toà án xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ vay cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

* Đối với bị đơn vợ chồng ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H:

Tòa án đã tống đạt giấy triệu hợp lệ nhiều lần nhưng vợ chồng ông P, bà H không đến Tòa án làm việc và cố tình lẩn tránh không tham gia tố tụng nên Tòa án không thể lấy lời khai của vợ chồng ông P, bà H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Xét thấy bị đơn vợ chồng ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H sau khi Tòa án ra Quyết định xét xử đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung: Xét Hợp đồng vay cấp tín dụng và khế ước nhận nợ số QPH.CN.1772.211119 ngày 21/11/2019 ký kết giữa Ngân hàng với vợ chồng ông P, bà H thì Ngân hàng cho vợ chồng ông P, bà H vay số tiền 200.000.000 đồng, đến nay vợ chồng ông P, bà H còn nợ Ngân hàng là 267.924.343 đồng (trong đó: nợ gốc là 200.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 24/3/2022 là 67.924.343 đồng).

[3]. Xét thấy việc các bên ký kết hợp đồng trên, là hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp và được pháp luật bảo vệ, bên vay là vợ chồng ông P, bà H đã vi phạm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo Hợp đồng cấp tín dụng, khế ước nhận nợ, nên yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ và cần chấp nhận, buộc vợ chồng ông P, bà H phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tiền vay còn nợ và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng vay cấp tín dụng và khế ước nhận nợ số QPH.CN.1772.211119 ngày 21/11/2019 trên.

Kể từ ngày 25/3/2022, vợ chồng ông P, bà H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

[4]. Xét Hợp đồng thế chấp tài sản:

Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp, HĐXX xét thấy khi vay tiền, ông P, bà H thế chấp tài sản cho Ngân hàng tại Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số QPH.BĐCN.260.281117 ngày 29/11/2017 giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng, bên thế chấp là vợ chồng ông P, bà H, các bên đã cùng nhau thỏa thuận ký kết thế chấp tài sản sau:

Thửa đất số 24, tờ bản đồ số 79, diện tích 11830.1 m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 651004 do UBND huyện C cấp ngày 10/01/2017 mang tên ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H, địa chỉ thửa đất tại: xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Hợp đồng thế chấp được ký kết là hoàn toàn tự nguyện và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng. Trong trường hợp vợ chồng ông P, bà H không trả được nợ cho Ngân hàng, cần phải xử lý tài sản thế chấp trên để thanh toán nợ cho Ngân hàng theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật dân sự năm 2015 là phù hợp.

[5]. Sau khi vợ chồng ông P, bà H trả đủ số nợ trên thì Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại cho vợ chồng ông P, bà H các giấy tờ sau:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 651004 do UBND huyện C cấp ngày 10/01/2017 mang tên ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H, địa chỉ thửa đất tại: xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

[6]. Trong trường hợp vợ chồng ông P, bà H không trả được số nợ trên thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng.

[7]. Về chi phí tố tụng: Ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

[8]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, trong đó: vợ chồng ông P, bà H phải chịu 267.924.343 đồng x 5% = 13.396.217 đồng.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà Ngân hàng đã nộp là 5.361.175 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 299, Điều 463, khoản 1 Điều 466, Điều 468, Điều 500 của Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Khoản 1 Điều 58, khoản 1 Điều 68 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án về mức thu án phí, lệ phí Tòa án”.

Tuyên xử:

1. Buộc vợ chồng ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A tiền vay còn nợ là 267.924.343 đồng (Hai trăm sáu mươi bày triệu chín trăm hai mươi bốn nghìn ba trăm bốn mươi ba đồng), trong đó: nợ gốc là 200.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 24/3/2022 là 67.924.343 đồng.

Kể từ ngày 25/3/2022, vợ chồng ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Sau khi vợ chồng ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H trả xong nợ gốc và lãi thì Ngân hàng Thương mại cổ phần A có nghĩa vụ trả lại cho ông P, bà H giấy tờ sau:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 651004 do UBND huyện C cấp ngày 10/01/2017 mang tên ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H, địa chỉ thửa đất tại: xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

3. Trong trường hợp ông P, bà H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần A có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tài sản thế chấp là: Thửa đất số 24, tờ bản đồ số 79, diện tích 11830.1 m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 651004 do Uỷ ban nhân dân huyện C cấp ngày 10/01/2017 mang tên ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H, địa chỉ thửa đất tại: xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

4. Về chi phí tố tụng: Ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Sau khi thu được tiền của ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H thì trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A 3.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ mà Ngân hàng đã nộp, theo Giấy thu tiền của Tòa án nhân dân huyện C ngày 28/10/2021.

5. Về án phí: Vợ chồng ông Trần Văn P và bà Huỳnh Thị Thanh H phải chịu: 13.396.217 đồng (Mười ba triệu ba trăm chín mươi sáu nghìn hai trăm mười bảy đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A 5.361.175 đồng. (Năm triệu ba trăm sáu mươi mốt nghìn một trăm bảy mươi lăm đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà Ngân hàng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C theo biên lai thu số 60AA/2021/0001909 ngày 11/10/2021.

6. Thông báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 05/2022/DS-ST

Số hiệu:05/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về