TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 04/2023/KDTM-PT NGÀY 24/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong các ngày 04 và ngày 24 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 02/2023/TLPT-KDTM ngày 27 tháng 3 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2023/KDTM-ST ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ có kháng cáo của đương sự.Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐPT-KDTM ngày 22/5/2023 và quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 01/2003/QĐ-PT ngày 16/6/2023, quyết định số 02/2023/QĐPT ngày 11/7/2023, quyết định số 03/2023/QĐPT ngày 24/7/2023.
Giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP C (V1).
Địa chỉ: Số A, phố T, quận H, TP ..
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hồng Á - Phó Giám đốc Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh B (Có mặt).
Ông Dương Anh T - Trưởng phòng, phòng khách hàng doanh nghiệp Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh B (Có mặt).
Địa chỉ: Khu A, phường V, TP ., tỉnh Phú Thọ.
Bị đơn: Công ty Cổ phần G1.
Địa chỉ: Khu T, TT P, huyện P, tỉnh Phú Thọ.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Anh T1 - Chủ tịch HĐQT (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số B, ngách I, ngõ B, phố Đ, phường B, quận H, TP ..
Người đại diện theo ủy quyền: ông Bùi Quang H (Có mặt ngày 04/8/2023, vắng mặt ngày 24/8/2023);
Địa chỉ: P tầng D tòa nhà D G, B, Hà Nội Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Tiến T2 (Có mặt) Địa chỉ: P tầng D tòa nhà D G, B, Hà Nội.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
- Ngân hàng N1 (A).
Địa chỉ: Số B, L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thanh H1 - Giám đốc A Chi nhánh L2 (Vắng mặt).
Người được ủy quyền lại: Bà Nguyễn Thị T3, bà Trần Thị Thu P, bà Bùi Thanh N, bà Đặng Thị Thúy H2 (Đều có mặt) Địa chỉ chi nhánh: Số E N, phường G, quận L, thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Tổng Công ty G2 - Công ty TNHH.
Địa chỉ: Số B, L, phường P, quận H, TP ..
Người Đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Quốc L - Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tạ Đức L1 - Phó Tổng giám đốc (Vắng mặt).
Người được ủy quyền lại: Bà Bùi Thị Thu H3 và bà Nguyễn Thị Minh K. (Bà K có mặt, bà H3 vắng mặt) Địa chỉ: Tầng E, lô V, Tòa nhà I - số B N, phường T, quận T, thành phố Hà Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Tổng Công ty G2 - Công ty TNHH: Bà Phan Thị Lam H4 và ông Nguyễn Đức T4 - Luật sư thuộc Công ty L - Đoàn Luật sư thành phố H (Luật sư H4 có mặt ngày 04/8/2023, vắng mặt ngày 24/8/2023; Luật sư T4 có mặt).
- Ông Đỗ Xuân T5, sinh năm 1953 (Đề nghị xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: SN A, tổ D, khu Đ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Thọ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại Đơn khởi kiện, Bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Ngân hàng TMCP C trình bày: Công ty Cổ phần G1 (trước đây là Công ty Cổ phần G3) tiền thân là Công ty Cổ phần G4 được Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) cấp tín dụng để đầu tư dây chuyền sản xuất giấy in, viết công suất 50.000 tấn/năm và vốn lưu động để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay dư nợ của Công ty Cổ phần G1 được thể hiện tại 02 Hợp đồng tín dụng ký ngày 16/3/2009 và ngày 16/3/2014, ngoài ra không còn hợp đồng tín dụng nào khác, cụ thể:
- Ngày 16/3/2009 Ngân hàng C - Chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) và Công ty cổ phần G3 (nay là Công ty Cổ phần G1) ký hợp đồng tín dụng số 09.24.0004 để cho vay số tiền 120.000.000.000 đồng và các văn bản sửa đổi, bổ sung Hợp đồng tín dụng kèm theo. Theo các văn bản sửa đổi, bổ sung Hợp đồng tín dụng kèm theo thì tổng số tiền mà Công ty G1 vay là 180.000.000.000 đồng (trong đó có 60.000.000.000 đồng được cơ cấu từ các Hợp đồng cho vay ngắn hạn sang Hợp đồng cho vay dài hạn). Tổng số tiền mà Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty G1 là 180.000.000.000 đồng. Mục đích vay vốn: Thanh toán các chi phí đầu tư mua máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất đồng bộ, chi phí đầu tư xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng phục vụ dự án sản xuất giấy in, viết công suất 50.000 tấn/năm. Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng và các văn bản sửa đổi, bổ sung Hợp đồng, Công ty G1 đã trả được 25.000.000.000 đồng tiền nợ gốc. Hiện nay dư nợ tạm tính đen ngày 11/01/2023 là: 304.013.271.616 đồng (trong đo: Nợ gốc: 155.000.000.000 đồng; Các khoản tiền lãi: 149.013.271.616 đồng).
- Ngày 19/6/2014 Ngân hàng C - Chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) và Công ty Cổ phần G1 ký hợp đồng tín dụng số 14.39.0006.HĐTDHM để cho vay số tiền 60.000.000.000 đồng và các văn bản sửa đổi, bổ sung Hợp đồng tín dụng kèm theo. Tổng số tiền mà Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty G1 là 60.000.000.000 đồng. Mục đích vay vốn: Vay vốn lưu động để kinh doanh sản xuất giấy, bột giấy các loại.
Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng và các văn bản sửa đổi, bổ sung Hợp đồng, Công ty G1 đã trả được 2.423.311.759 đồng nợ. Hiện nay dư nợ tạm tính đến ngày 11/01/2023 là: 95.824.927.302 đồng (trong đó: Nợ gốc: 57.576.688.241 đồng; Các khoản tiền lãi: 38.248.239.061 đồng).
Tài sản bảo đảm cho các khoản vay trên bao gồm:
- Các tài sản được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 10.30.0037 ngày 22/4/2010 và các văn bản sửa đổi bổ sung kèm theo. Bên thế chấp là Công ty Cổ phần G1, bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ.
- Các tài sản được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 10.30.0038 ngày 22/4/2010 và các văn bản sửa đổi bổ sung kèm theo. Bên thế chấp là Công ty Cổ phần G1, bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ.
- Các tài sản được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 10.30.0041 ngày 22/4/2010 và các văn bản sửa đổi bổ sung kèm theo. Bên thế chấp là Công ty Cổ phần G1, bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ.
- Các tài sản được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/9/2012 và các văn bản sửa đổi bổ sung kèm theo. Bên thế chấp là Công ty Cổ phần G1, bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ và Ngân hàng N1 - Chi nhánh H5. Giá trị tài sản thế chấp trên Hợp đồng là 500.000.000.000 đồng (trong đó tỷ lệ thế chấp của Ngân hàng N2 - Chi nhánh H5 là 50,9%, Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ là 49,1%).
- Các tài sản được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 248- 10.39.0035/HĐTC-BBP ngày 05/3/2014. Bên thế chấp là Công ty Cổ phần G1, bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ.
Quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh Công ty hoạt động không hiệu quả, không trả được nợ đúng hạn cho Ngân hàng M đã được Ngân hàng G5 trả nợ nhưng đến nay Công ty G1 vẫn không thực hiện đúng theo các cam kết trả nợ với Ngân hàng.
Nay Ngân hàng khởi kiện để đề nghị Tòa án buộc: Công ty cổ phần G1 phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng các khoản tiền nợ gốc và các khoản tiền lãi phát sinh tạm tính đến ngày 11/01/2023 của 02 Hợp đồng tín dụng nêu trên là 399.838.198.918 đồng (Ba trăm chín mươi chín tỷ tám trăm ba mươi tám triệu một trăm chín mươi tám nghìn chín trăm mười tám đồng) trong đó: Nợ gốc: 212.576.688.241 đồng; Nợ lãi: 187.261.510.677 đồng. Đồng thời buộc Công ty G1 phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả lãi tiền vay theo mức lãi suất nợ quá hạn đã thỏa thuận trong các Hợp đồng tín dụng trên số nợ gốc cho đến khi thi hành xong.
Trường hợp Công ty G1 không trả được nợ thì đề nghị Tòa án tuyên Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm theo 05 Hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên. Đối với Hợp đồng thế chấp tài sản chung với Ngân hàng N2 - Chi nhánh H5 đề nghị phân chia thu hồi theo tỷ lệ đã thống nhất tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/9/2012. Trong trường hợp bán các tài sản bảo đảm không đủ đề thu hồi nợ thì Công ty G1 tiếp tục phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc dùng các tài sản khác để trả nợ theo quy định của pháp luật.
* Tại Bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Công ty Cổ phần G1 trình bày: Để có chi phí đầu tư mua sắm nhập khẩu máy móc, thiết bị dây chuyền sản xuất, chi phí đầu tư xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng phục vụ dự án sản xuất giấy in, viết công suất 50.000 tấn/năm, Công ty cổ phần G1 có ký các hợp đồng tín dụng và thế chấp tài sản với Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ theo các Hợp đồng tín dụng và các Hợp đồng thế chấp tài sản như Đại diện Ngân hàng TMCP C trình bày. Đồng thời Công ty có ký Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng N2 - Chi nhánh H5 để vay số tiền 10.397.886 USD và Hợp đồng thế chấp tài sản như đại diện Ngân hàng N2 trình bày. Hiện nay tổng số tiền gốc mà Công ty còn nợ Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ theo 02 Hợp đồng tín dụng là 212.576.688.241 đồng và các khoản tiền lãi phát sinh, số tiền gốc mà Công ty còn nợ Ngân hàng N2 - Chi nhánh H5 số tiền nợ gốc 8.970.302,82 USD và các khoản tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng.
Tuy nhiên quá trình triển khai dự án và đi vào hoạt động, Công ty G1 gặp rất nhiều khó khăn. Công ty G1 đã phải tạm dừng hoạt động từ tháng 10/2015 đến nay. Tuy vậy, với ý thức và trách nhiệm với Ngân hàng, Công ty đã phải vay tiền của các Cổ đông như Tổng Công ty G2, Công ty cổ phần D và các cổ đông là cá nhân khác để duy trì việc bảo quản dây chuyền, máy móc, thiết bị hạn chế tối đa việc thất thoát tài sản đã thế chấp với các Ngân hàng và đảm bảo máy móc luôn ở tình trạng có thể phục hồi sản xuất.
Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông Công ty ngày 19/5/2018 sau khi phân tích, đánh giá khách quan tình hình của Công ty, tình hình thị trường giấy và tham khảo ý kiến của chuyên gia đều khẳng định là dây chuyền có thể khôi phục để chạy giấy in, viết và giấy K1. Được sự hỗ trợ của các cổ đông lớn là Công ty cổ phần D và Tổng Công ty G2, Công ty quyết định lên phương án nâng cấp sửa chữa máy móc, thiết bị dây chuyền để đưa nhà máy K2 sản xuất trở lại. Nếu triển khai theo phương án này thì nhà máy sản xuất sẽ được khôi phục, Công ty G1 sẽ có nguồn thu để chi trả cho Ngân hàng, nhà cung cấp và các cổ đông có thể không mất vốn của mình.
Công ty G1 không yêu cầu các Ngân hàng tiếp tục tài trợ vốn để khôi phục nhà máy mà chỉ đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện không thu hồi nợ trong giai đoạn nâng cấp, cải tạo nhà máy và chấp nhận thu một phần (theo lộ trình đã tính cho Ngân hàng) khi nhà máy đi vào sản xuất và đã có doanh thu (dự kiến) từ 01 năm đến 05 năm đầu để tạo điều kiện cho nhà máy ổn định sản xuất.
Tại phiên tòa, Đại diện Công ty Cổ phần G1ấy BBP nhất trí với các yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP C và yêu cầu độc lập của Ngân hàng N3 về việc yêu cầu Công ty phải trả các khoản tiền nợ gốc và các khoản tiền lãi theo các Hợp đồng tín dụng đã ký với 02 Ngân hàng. Đồng thời cũng nhất trí xử lý các tài sản bảo đảm được thể hiện tại 05 Hợp đồng thế chấp tài sản đã ký trong trường hợp Công ty không trả được nợ. Đề nghị hai Ngân hàng cho Công ty T7 để cơ cấu khoản nợ.
* Tại Bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Ngân hàng N2 trình bày: Ngày 30/10/2008 Công ty Cổ phần G1 ký hợp đồng tín dụng dài hạn với A Chi nhánh H5 để vay số tiền 10.397.866,82 USD, thời hạn vay 72 tháng (06 năm) kể từ ngày bên vay nhận tiền vay lần đầu, trong đó thời gian ân hạn là 12 tháng, thời gian trả nợ gốc là 60 tháng. Khoản vay trên đã được gia hạn thời hạn trả nợ gốc 02 lần, lần cuối cùng gia hạn thời hạn trả nợ là 204 tháng (17 năm). Sau khi ký Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền trên cho Công ty. Việc giải ngân được thể hiện tại 13 giấy nhận nợ. Mục đích vay vốn: Nhập khẩu máy móc, thiết bị thuộc dự án đầu tư dây chuyền sản xuất giấy in, viết công suất 50.000 tấn/năm.
Trước khi ký Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã làm việc với Công ty G1 và các bên đã thống nhất Công ty Cổ phần G1 sẽ đề nghị Tổng Công ty G2 có văn bản bảo lãnh khoản vay của Công ty G1 tại Ngân hàng A Chi nhánh H5 vì thời điểm này Tổng Công ty G2 là cổ đông lớn chiếm 29% vốn điều lệ. Ngày 21/8/2008 Tổng Công ty G2 có Giấy cam kết bảo lãnh số 460/GVN - HĐQT.HN về việc cam kết bảo lãnh cho khoản vay 15 triệu Đô la Mỹ của Công ty Cổ phần G1 tại Ngân hàng A Chi nhánh H5.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay trên là toàn bộ tài sản hình thành từ vốn vay của của dự án được thể hiện chi tiết tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/9/2012 giữa bên thế chấp là Công ty cổ phần G1 và bên nhận thế chấp là V1 Chi nhánh Đ và A Chi nhánh H5 (trong đó tỷ lệ nhận thế chấp của A là 50,9% và tỷ lệ nhận thế chấp của V1 là 49,1%).
Trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng dài hạn, A Chi nhánh H5 luôn tạo điều kiện tốt nhất cho Công ty Cổ phần G1 trong việc sử dụng vốn vay cũng như trả lãi vay hàng tháng. Tuy nhiên, do Công ty G1 không chấp hành các quy định của Ngân hàng về trả nợ gốc và lãi, vi phạm các cam kết trong Hợp đồng tín dụng đã ký, để phát sinh nợ quá hạn. Kể từ ngày phát sinh nợ quá hạn đến nay, Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, gửi thông báo và yêu cầu Công ty trả nợ. Công ty cũng đã cam kết nhiều lần nhưng vẫn không thực hiện được việc trả nợ gốc, lãi cho Ngân hàng.
Hiện nay dư nợ gốc của Công ty đối với Ngân hàng là 8.970.302,82USD và các khoản tiền lãi tạm tính đến ngày 11/01/2023 là: 6.847.450,60USD.
Nay Ngân hàng yêu cầu:
- Công ty Cổ phần G1 phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và các khoản tiền lãi tạm tính đến ngày 11/01/2023 như trên đồng thời Công ty phải tiếp tục thực hiện trả tiền lãi vay cho Ngân hàng theo mức lãi suất nợ quá hạn đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng.
- Trường hợp Công ty Cổ phần G1 không trả được nợ thì đề nghị Tòa án tuyên Ngân hàng có quyền đề nghị xử lý tài sản bảo đảm được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/9/2012. Nếu tài sản bảo đảm không đủ để thu hồi nợ thì Công ty Cổ phần G1 vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu Tổng Công ty G2 phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (trả thay) cho Công ty Cổ phần G1ấy BBP các khoản tiền mà Công ty G1 còn nợ Ngân hàng A Chi nhánh H5 theo Giấy cam kết bảo lãnh số 460/GVN -HĐQT.HN ngày 21/8/2008 của Tổng Công ty G2.
* Tại Bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện Tổng Công ty G2 trình bày: Tổng Công ty G2 cho rằng Giấy bảo lãnh số 460/GVN- HĐQT.HN ngày 21/8/2008 không phải là giao dịch bảo lãnh, bởi các lý do sau: Thứ nhất: Tại thời điểm ký Giấy bảo lãnh vay vốn số 460/GVN-HĐQT.VN ngày 21/8/2008, pháp luật không có quy định về quyền bảo lãnh của Tổng Công ty N4 cho các Công ty liên kết Theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 1803000052 đăng ký lần đầu ngày 02/10/2002, đăng ký lại lần thứ 01 ngày 13/6/2008 của Công ty Cổ phần G1 thì Tổng Công ty Giấy sở hữu 348.000 cổ phần phổ thông, trị giá 34.800.000.000 đồng, chiếm 29% vốn điều lệ Công ty.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định số 153/2004/NĐ-CP ngày 09/8/2004 của Chính phủ về tổ chức, quản lý Tổng công ty N4 và chuyển đổi Tổng công ty N4, Công ty N5 độc lập theo mô hình công ty mẹ - công ty con thì Công ty L3 là các công ty có vốn góp không chi phối của công ty mẹ, tổ chức dưới hình thức công ty TNHH H thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty liên doanh với nước ngoài, công ty ở nước ngoài. Như vậy, theo quy định này thì Công ty Cổ phần G1 là công ty liên kết của Tổng Công ty G2.
Căn cứ theo quy định tại Nghị định số 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài chính của Công ty N5 và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác và Thông tư số 24/2007/TT-BTC ngày 27/03/2007 thì không có bất cứ quy định nào quy định Tổng Công ty Nhà nước được phép bảo lãnh cho công ty L3 vay vốn. Vậy, Tổng Công ty Giấy đề nghị Tòa án xem xét về tính pháp lý và hiệu lực của giấy bảo lãnh và trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Tổng Công ty Giấy theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Công ty Cổ phần G1 là Công ty liên kết của Tổng Công ty Giấy theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định số 153/2004/NĐ-CP, do đó Tổng Công ty Giấy không được bảo lãnh cho Công ty Cổ phần G1 vay vốn ngân hàng.
Thứ hai: Về thẩm quyền ký Giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN ngày 21/8/2008. Giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 do Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty Giấy ký là không phù hợp với quy định pháp luật, bởi:
- Căn cứ theo quy định tại Điều 7 Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Giấy (ban hành kèm theo Quyết định số 64/2006/QĐ-TTg ngày 20/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ) thì người đại diện theo pháp luật của Tổng Công ty Giấy là Tổng Giám đốc mà không phải là Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Quy chế quản lý tài chính số 2767/QĐ-BTC ngày 17/8/2006 của Tổng Công ty Giấy thì thẩm quyền phê duyệt hợp đồng vay vốn: Hội đồng quản trị quyết định các hợp đồng vay vốn có giá trị bằng hoặc thấp hơn 50% tổng tài sản của Công ty mẹ để Tổng Giám đốc thực hiện. Trường hợp vay vốn có giá trị lớn hơn 50% tổng tài sản Công ty mẹ Hội đồng quản trị phải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trên thực tế, Hội đồng quản trị Tổng Công ty Giấy cũng không có bất kỳ một văn bản ủy quyền nào ủy quyền cho Tổng Giám đốc ký hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng tín dụng hay hợp đồng bảo đảm tiền vay với ngân hàng.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 86 Bộ luật Dân sự 2005 thì “Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự”. Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2005 thì “người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là người đại diện theo pháp luật”. Theo Điều lệ Tổng Công ty năm 2006 thì “Người đại diện theo pháp luật của V là Tổng Giám đốc V2”. Theo đó, về nguyên tắc, mọi văn bản, giấy tờ, tài liệu, hợp đồng giao dịch chỉ có hiệu lực pháp luật đối với doanh nghiệp và bên thứ ba nếu như được ký kết bởi người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.
Như vậy, theo quy định trên, Hội đồng quản trị Tổng Công ty Giấy chỉ có thể thông qua, chấp thuận cho hoặc không cho triển khai hợp đồng, nhưng việc ký kết hợp đồng thì thẩm quyền lại thuộc về người đại diện hợp pháp của Tổng Công ty Giấy là Tổng giám đốc. Theo báo cáo tài chính của Công ty mẹ - Tổng Công ty Giấy năm 2007 (đã kiểm toán), tổng giá trị tài sản của Tổng Công ty Giấy là 2.621 tỷ đồng. Tại Giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN, Tổng Công ty Giấy có chủ trương bảo lãnh cho Công ty Cổ phần G1 được vay vốn tại Ngân hàng N1 với hạn mức là 15 triệu USD (tương đương với 249.405.000.000 đồng - tỷ giá USD tại thời điểm tháng 8/2008: 1USD = 16.627 vnđ) là thấp hơn 50% tổng giá trị tài sản của Công ty. Do đó, trong trường hợp này giấy bảo lãnh vay vốn thuộc thẩm quyền và thực hiện của Tổng giám đốc. Như vậy, việc Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty Giấy ký giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN là không đúng thẩm quyền.
- Nghị quyết của Hội đồng quản trị chưa thông qua việc bảo lãnh cho Công ty Cổ phần G1. Tại Biên bản họp số 25/BB-GVN.HN ngày 10/10/2008 và Nghị quyết số 04/NQ-GVN.HN ngày 10/10/2008 của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Giấy Hội đồng quản trị chỉ đề cập tới nội dung báo cáo kết quả của phiếu xin ý kiến về việc bảo lãnh cho Công ty Cổ phần G1 vay vốn đầu tư với số phiếu đồng ý là 04/05 phiếu, ý kiến khác là 01/05 phiếu. Như vậy, Biên bản và Nghị quyết của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Giấy chỉ dừng lại với nội dung “báo cáo về việc lấy ý kiến về việc bảo lãnh” mà chưa thông qua việc bảo lãnh cho Công ty Cổ phần G1 vay vốn đầu tư.
- Việc giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 căn cứ vào Công văn số 7286/BCT-CNN ngày 19/8/2008 của Bộ C1 về việc bảo lãnh vay vốn ngân hàng là không đúng quy định pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều ố Điều lệ Tổng Công ty Giấy năm 2006 thì: Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ của VINAPACO. Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại VINAPACO.
Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 199/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về việc ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty N5 và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác thì: Bộ trưởng Bộ T8 chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành Quy chế quản lý tài chính của công ty N5 và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác ban hành kèm theo Nghị định này. Theo đó, việc xin ý kiến, chỉ đạo của Tổng Công ty Giấy cần có ý kiến của Bộ T8 mà không phải ý kiến của Bộ Cl. Do đó, việc ký giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 căn cứ vào Công văn số 7286/BCT-CNN ngày 19/8/2008 của Bộ C1 về việc bảo lãnh vay vốn ngân hàng là không đúng. Hơn nữa, ý kiến của Bộ C1 tại văn bản trả lời số 7286/BCT-CNN ngày 19/8/2008 không rõ ràng. Bộ C1 chỉ trả lời chung chung là “việc bảo lãnh là hợp lý” chứ không có nội dung trả lời cụ thể về việc Bộ C1 đồng ý cho Tổng Công ty Giấy bảo lãnh vay vốn hay không.
Thứ ba: về hình thức bảo lãnh: Mặc dù tại thời điểm ký giấy bảo lãnh vay vốn số 460/GVN-HĐQT.VN ngày 21/8/2008, pháp luật không có quy định về quyền bảo lãnh của Tổng công ty N4 cho các Công ty liên kết, tuy nhiên trường hợp bảo lãnh (nếu có) thì hình thức bảo lãnh phải tuân theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo quy định tại Điều 362 Bộ luật Dân sự 2005 thì việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng, chứng thực. Như vậy, việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, thể hiện rõ ý chí của bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh cũng như thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh từ thời điểm nào đến thời điểm nào, phạm vi bảo lãnh, chấm dứt bảo lãnh, xử lý tài sản bảo lãnh... các bên đều không thỏa thuận bởi thực tế không tồn tại giao kết bảo lãnh được các bên thống nhất ký kết.
Trong trường hợp này, việc bảo lãnh giữa Tổng Công ty Giấy với Công ty Cổ phần G1 (nếu có) phải được lập thành văn bản, có chữ ký của bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh cũng như quy định cụ thể về thời hạn bảo lãnh, chấm dứt bảo lãnh, xử lý tài sản bảo lãnh... Tuy nhiên, Giấy bảo lãnh vay vốn số 460/GVN- HĐQT.VN ngày 21/8/2008 chỉ thể hiện ý chí đơn phương của Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty Giấy mà không có chừ ký của bên nhận bảo lãnh, đồng thời cũng không có các nội dung cơ bản của bảo lãnh. Rõ ràng, hình thức của bảo lãnh là không phù hợp với quy định của pháp luật và trong trường hợp này không tồn tại giao kết bảo lãnh được các bên thống nhất ký kết.
Thứ tư: Văn bản bảo lãnh của V, trên thực tế không sử dụng cho hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp tài sản của Công ty Cổ phần G1: Ngày 30/10/2008, Ngân hàng N1 và Công ty cổ phần G3 đã ký kết Hợp đồng tín dụng dài hạn, theo đó Ngân hàng N1 đồng ý cho Công ty Cổ phần G1 vay 10.397.886 USD (Bằng chữ: Mười triệu, ba trăm chín mươi bảy nghìn, tám trăm tám mươi sáu đô la Mỹ). Tại Điều 6 Hợp đồng tín dụng dài hạn thì tài sản bảo đảm là: toàn bộ tài sản hình thành từ vốn vay của dự án bao gồm: Nhà máy, dây chuyền sản xuất giấy công suất 50.000 tấn/năm. Đồng thời, trong Hợp đồng tín dụng không có nội dung nào thể hiện căn cứ có tài sản đảm bảo theo văn bản bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 của Tổng Công ty Giấy.
Ngoài ra, tại các Hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay số 09.24.0001 giữa Ngân hàng N1, Ngân hàng C và Công ty Cổ phần G1; Hợp đồng thế chấp tài sản số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/9/2012 giữa Ngân hàng C, Ngân hàng N1 và Công ty Cổ phần G1 cũng không có nội dung nào thể hiện căn cứ có tài sản đảm bảo theo giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 của Tổng Công ty Giấy.
Như vậy, giấy bảo lãnh số 460/GVN-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 của Tổng Công ty Giấy không phải là căn cứ bảo đảm tiền vay của hợp đồng giải ngân vốn vay đã ký giữa Ngân hàng N1 đối với Công ty Cổ phần G1.
Nay, T9 đề nghị Tòa án:
- Không xác định Tổng Công ty Giấy là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án kinh doanh thương mại số 02/2018/TLST- KDTM.
- Xác định không có giao kết bảo lãnh giữa Tổng Công ty Giấy và Ngân hàng N1.
- Xem xét đình chỉ yêu cầu độc lập của Ngân hàng N1 về nội dung “Yêu cầu Tổng Công ty G2 thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (trả thay) cho Công ty Cổ phần G1 theo giấy bảo lãnh vay vốn số 460/GVN-HĐQT.VN ngày 21/8/2008”.
* Ông Đỗ Xuân T5 trình bày: Ngày 13/8/2008 Công ty cổ phần G1 và Ngân hàng A Chi nhánh H5 đã làm việc về việc giải quyết vay vốn để nhập khẩu thiết bị dự án dây chuyền sản xuất giấy in, viết công suất 50.000 tấn/năm. Căn cứ vào nội dung làm việc, các bên thống nhất Công ty Cổ phần Giấy BBP sẽ đề nghị Tổng Công ty G2 có văn bản bảo lãnh khoản vay vì là cổ đông lớn chiếm 29% vốn điều lệ. Ngày 14/8/2008 Công ty G1 có văn bản số 17/GBB gửi Tổng Công ty G2 đề nghị Tổng Công ty Giấy bảo lãnh cho khoản vay 15 triệu USD của Công ty G1 tại Ngân hàng A Chi nhánh H5 và cam kết sau khi có tài sản hình thành sau đầu tư sẽ dùng tài sản thế chấp trong việc bảo lãnh của Tổng Công ty Giấy. Do đó khi Hội đồng quản trị có văn bản xin ý kiến ngày 19/8/2008, ông đã ký và đồng ý với chủ trương bảo lãnh cho Công ty G1 được vay vốn tại Ngân hàng A Chi nhánh H5 và ngày 21/8/2008 ông đã ký Giấy bảo lãnh số 460/GBL-HĐQT.HN. Thực tế tại thời điểm đó, Giấy bảo lãnh này mới chỉ là chủ trương của Tổng Công ty Giấy, chưa được Hội đồng quản trị thông qua bởi để được thông qua việc bảo lãnh thì trên thực tế các bên phải triển khai các công việc có liên quan như: Tiếp tục thực hiện các hướng dẫn của Bộ C1, xin ý kiến chuyên môn của Bộ T8, giao kết Hợp đồng bảo lãnh. Bên canh đó tại thời điểm năm 2008 pháp luật không có bất cứ quy định nào cho phép Tổng Công G được bảo lãnh cho Công ty liên kết nên Tổng Công ty Giấy không có cơ sở đề tiếp tục thực hiện giao dịch bảo lãnh và Ngân hàng A cũng thể hiện ý chí không tiếp tục giao dịch bảo lãnh vì không có bất cứ phản hồi nào với Tổng Công ty G2, không xây dựng Hợp đồng bảo lãnh riêng và cũng không đưa việc bảo lãnh vào trong Hợp đồng tín dụng cũng như Hợp đồng thế chấp tài sản.
Trong năm 2011 và năm 2012 Tổng Công Giấy Việt Nam đã gửi các công văn đề nghị giải chấp tới Ngân hàng A Chi nhánh H5 và Công ty Cổ phần G1 để xác lập không có giao dịch bảo lãnh giữa các bên. Do đó, ông khẳng định Giấy bảo lãnh số 460/GBL-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 chỉ là văn bản thể hiện chủ trương bảo lãnh cho Công ty G1, không phải là văn bản bảo lãnh nên không có giá trị giàng buộc với Tổng Công ty Giấy. Các bên cũng không có cơ sở để tiếp tục thực hiện giao dịch bảo lãnh vì không có bất cứ phản hồi nào với Tổng ty Giấy Việt Nam, không xây dựng Hợp đồng bảo lãnh riêng và cũng không đưa bảo lãnh và Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp tài sản.
Vì vậy, ông đề nghị Tòa án:
- Xác định giấy bảo lãnh số 460/GBL-HĐQT.HN ngày 21/8/2008 không phải là giao dịch bảo lãnh của Tổng Công ty G2 cho Công ty Cổ phần G1.
- Đình chỉ yêu cầu độc lập của Ngân hàng A về nội dung “Yêu cầu Tổng Công ty G2 thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (trả nợ thay) cho Công ty Cổ phần G1ấy BBP theo Giấy bảo lãnh trên.
* Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2023/KDTM-ST ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đã quyết định:
Căn cứ vào: Điều 299, 306, 317, 319, 323, khoản 2 Điều 326, Điều 463, 466, 468, 470 của B1; Khoản 16 Điều 4, Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; Khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 157, 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP C.
Buộc Công ty Cổ phần G1 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ (Nay là Chi nhánh B) số tiền gốc còn nợ và các khoản tiền lãi tạm tính đến ngày 11/01/2023 của 02 Hợp đồng tín dụng cụ thể:
- Hợp đồng tín dụng số 09.24.0004 ngày 16/3/2009:
+ Nợ gốc: 155.000.000.000 đồng (Một trăm năm mươi lăm tỷ đồng).
+ Các khoản nợ lãi: 149.013.271.616 đồng (Một trăm bốn mươi chín tỷ không trăm mười ba triệu hai trăm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm mười sáu đồng).
Tổng cả gốc và lãi: 304.013.271.616 đồng (Ba trăm linh tư tỷ không trăm mười ba triệu hai trầm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm mười sáu đồng).
- Hợp đồng tín dụng số 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014:
+ Nợ gốc: 57.576.688.241 đồng (Năm mươi bảy tỷ năm trăm bảy mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi tám nghìn hai trăm bốn mươi mốt đồng).
+ Các khoản nợ lãi: 38.248.239.061 đồng (Ba mươi tám tỷ hai trăm bốn mươi tám triệu hai trăm ba mươi chín nghìn không trăm sáu mươi mốt đồng).
Tổng cả gốc và lãi: 95.824.927.302 đồng (Chín mươi lăm tỷ tám trăm hai tư triệu chín trăm hai mươi bảy nghìn ba trăm linh hai đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của Ngân hàng N1.
Buộc Công ty G1 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N1 Chi nhánh H5 các khoản tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng dài hạn ngày 30/10/2008 tạm tính đến ngày 11/01/2023:
+ Nợ gốc: 8.970.302,82 USD (Tám triệu chín trăm bảy mươi nghìn ba trăm linh hai đô la Mỹ tám mươi hai cen), tương đương 211.699.146.552 đồng (Hai trăm mười một tỷ sáu trăm chín mươi chín triệu một trăm bốn mươi sáu nghìn năm trăm năm mươi hai đồng).
+ Các khoản nợ lãi: 6.847.147,78 USD (Sáu triệu tám trăm bốn mươi bảy nghìn một trăm bốn mươi bảy đô la Mỹ bảy mươi tám cen), tương đương 161.592.687.608 đồng (Một trăm sáu mươi mốt tỷ năm trăm chín mươi hai triệu sáu trăm tám mươi bảy nghìn sáu trăm linh tám đồng).
Tổng cả gốc và lãi là 15.817.450,60 USD (Mười lăm triệu tám trăm mười bảy nghìn bốn trăm năm mươi đô la Mỹ sáu mươi cen). Tương đương: 373.291.834.160 đồng (Ba trăm bảy mươi ba tỷ hai trăm chín mươi mốt triệu tám trăm ba mươi tư nghìn một trăm sáu mươi đồng).
(Tỷ giá quy đổi ngày 11/01/2023 là: 23.600VNĐ/USD).
Đồng tiền trả nợ: USD (Đô la Mỹ).
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của Ngân hàng N6 về việc buộc Tổng Công ty G2 phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (trả nợ thay) cho Công ty Cổ phần G1 đối với dư nợ gốc còn lại của Hợp đồng tín dụng ngày 30/10/2008 là 8.970.302,82 và tiền lãi tạm tính đến ngày 11/01/2023 là: 6.847.147,78 USD tại Ngân hàng N1 - Chi nhánh H5.
4. Về xử lý tài sản bảo đảm:
Chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng TMCP C và Ngân hàng N1 về xử tài sản bảo đảm theo các Hợp đồng thế chấp tài sản cụ thể:
+ Trường hợp Công ty Cổ phần G1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP C theo 02 Hợp đồng tín dụng dụng số 09.24.0004 ngày 16/3/2009 và 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014 thì Ngân hàng có quyền đề nghị xử lý tài sản bảo đảm được thể hiện tại các Hợp đồng thế chấp tài sản: số 10.30.0037; số 10.30.0038; số 10.30.10.0041 ngày 22/4/2010 giữa Ngân hàng TMCP C Chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) với Công ty Cổ phần G1. Giá trị các tài sản bảo đảm được xác định tại thời điểm xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp Công ty Cổ phần G1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP C theo 02 Hợp đồng tín dụng số 09.24.0004 ngày 16/3/2009 và 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014 và không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng N1 theo Hợp đồng tín dụng dài hạn ngày 30/10/2008 thì các Ngân hàng có quyền đề nghị xử lý tài sản bảo đảm được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/09/2012 giữa Ngân hàng V1 chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) và Ngân hàng A Chi nhánh H5 với Công ty Cổ phần G1 (Tỷ lệ xử lý tài sản thế chấp là: V1 Chi nhánh Đ (B) 49,1%; A Chi nhánh H5). Giá trị các tài sản bảo đảm được xác định tại thời điểm xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục duy trì 04 Hợp đồng thế chấp tài sản: số 10.30.0037; số 10.30.0038; số 10.30.10.0041 ngày 22/4/2010 và số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/09/2012 để đảm bảo cho việc thi hành án.
Trường hợp xử lý các tài sản bảo đảm theo các Hợp đồng thế chấp trên không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi thì Công ty Cổ phần G1 tiếp tục phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc dùng các tài sản khác để trả nợ theo quy định của pháp luật Không xử lý các tài sản bảo đảm được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 248.10.39.0035/HĐTC- BBP ngày 05/3/2014 giữa bên thế chấp Công ty Cổ phần G1 và bên nhận thế chấp là Ngân hàng C - Chi nhánh Đ (nay là chi nhánh B) do hiện nay các tài sản bảo đảm thể hiện tại Hợp đồng thế chấp này không còn.
Kể từ ngày 12/01/2023 cho đến khi thi hành án xong, Công ty Cổ phần G1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên đã thỏa thuận tại các Hợp đồng tín dụng: số 09.24.0004 ngày 16/3/2009 và số 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014 giữa Ngân hàng TMCP C Chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) với Công ty Cổ phần G1 và Hợp đồng tín dụng dài hạn ngày 30/10/2008 giữa Ngân hàng N1 Chi nhánh H5 với với Công ty Cổ phần G1.
Ngoài ra, bản án còn tuyên án phí và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/01/2023 Công ty Cổ phần G1 có đơn kháng cáo với nội dung: Không nhất trí với toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm và đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập giữ nguyên yêu cầu độc lập, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiềm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên toà có quan điểm về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký phiên toà khi giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, kháng cáo đúng hạn luật định. Hội đồng xét xử đã xét xử đúng nguyên tắc, các bên đương sự đều thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm Sát nhân dân tỉnh Phú Thọ; Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của Công ty Cổ phần G1 trong hạn luật định, nên được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của Công ty Cổ phần G1 Hội đồng xét xử nhận định:
[2.1] Về thẩm quyền kí kết các hợp đồng tín dụng: Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty Cổ phần G1 nhất trí với các hợp đồng tín dụng mà đại diện theo ủy quyền của công ty đã ký kết với các ngân hàng là đúng pháp luật nên không đề nghị hội đồng xét xử xem xét nội dung này vì vậy HĐXX không xem xét giải quyết là phù hợp.
[2.2] Về phương pháp tính lãi của 02 ngân hàng đối với các hợp đồng tín dụng: Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty G1 nhất trí với phương pháp tính lãi theo các hợp đồng tín dụng do 02 ngân hàng trình bày tại phiên tòa nên cũng không đề nghị hội đồng xét xử xem xét nội dung này vì vậy HĐXX không xem xét giải quyết là phù hợp.
[2.3]. Xét kháng cáo của Công ty CP GI về hợp đồng thế chấp số 10.30.0037 ngày 22/4/2010 với Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ (Nay là Chi nhánh B) vì công ty cho rằng theo hợp đồng này không nêu rõ là các tài sản này để đảm bảo cho khoản vay tín dụng nào. HĐXX xét thấy:
Tại văn bản sửa đổi bổ sung hợp đồng thế chấp tài sản số 10.30.0037 ký ngày 01/7/2013 giữa Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ và Công ty CP Gl. Tại Điều 2 về nghĩa vụ bảo đảm: Bên B tự nguyện đem tài sản thế chấp được nêu tại Điều 1 nêu trên (kể cả khoản tiền bảo hiểm cho tài sản đó (nếu có) thế chấp cho bên A để đảm bảo cho toàn bộ nghĩa vụ trả nợ (Bao gồm nợ gốc, lãi trong hạn, lãi phạt quá hạn, phí và các chi phí phát sinh khác có liên quan (nếu có) của bên B phát sinh tại bên A theo tất cả các hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo lãnh hoặc hợp đồng giao dịch khác và các văn bản sửa đổi bổ sung kèm theo do hai bên ký kết.
Trong trường hợp bên B còn dư nợ tại bên A nhưng đơn phương đề nghị rút tài sản thì bên B phải trả nợ cho bên A một khoản tiền tương đương giá trị tài sản tại thời điểm rút tài sản hoặc thay thế, bổ sung tài sản đảm bảo khác nếu được bên A chấp thuận.
Các nội dung khác của điều 1 và các điều khoản khác của hợp đồng thế chấp tài sản số 10.30.0037 ngày 22/4/2010 đã được ký kết giữa 02 bên vẫn giữ nguyên không thay đổi.
Tại biên bản định giá lại tài sản thế chấp ngày 12/02/2015 đối với các tài sản theo hợp đồng thế chấp tài sản số 10.30.0037 ngày 22/4/2010 tại Điều 5 của biên bản thể hiện về nghĩa vụ được bảo đảm: Khách hàng vay vốn: công ty CP G1, giá trị nghĩa vụ được bảo đảm của tài sản trên là 228.000.000 đồng. Bên B tự nguyện đem tài sản nói trên( kể cả khoản tiền bảo hiểm cho tài sản đó - nếu có) thế chấp cho bên A để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của bên B (bao gồm nợ gốc, lãi trong hạn, lãi phạt quá hạn, phí và các chi phí khác có liên quan - nếu có) phát sinh tại bên A theo tất cả các hợp đồng tín dụng, hợp đồng cấp bảo lãnh và các chứng từ cấp tín dụng khác do hai bên ký kết.
Tổng số dư nợ cấp tín dụng (Số dư cho vay, bảo lãnh, mở L/c, hình thức cấp tín dụng khác) tối đa là 68.000.000 đồng.
Như vậy, hợp đồng thế chấp tài sản số 10.30.0037 ngày 22/4/2010 nhằm đảm bảo cho các khoản như đã phân tích trên là phù hợp, nội dung kháng cáo trên của Công ty CP G1 là không có căn cứ chấp nhận.
[2.4]. Xét kháng cáo của Công ty CP G1 về việc Tòa án cấp sơ thẩm không thẩm định giá trị tài sản mà chỉ căn cứ vào biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 07/9/2022 thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự đều nhất trí không đề nghị Tòa án tiến hành thẩm định giá hoặc định giá tài sản bảo đảm mà cùng thống nhất trong quá trình thi hành án và xử lý tài sản bảo đảm (nếu có) sẽ tiến hành thẩm định giá thông qua tổ chức định giá tài sản. Xét thấy đề nghị này của các bên là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 306 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành thẩm định giá là phù hợp.
Từ những nhận định trên cấp phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Công ty CP G1.
[2.5]. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do kháng cáo của Công ty CP G1 không được chấp nhận nên Công ty CP G1 phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định.
[2.6] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ Luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần G1.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Căn cứ vào: Điều 299, 306, 317, 319, 323, khoản 2 Điều 326, Điều 463, 466, 468, 470 của B1; Khoản 16 Điều 4, Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; Khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 157, 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP C.
Buộc Công ty Cổ phần G1 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh Đ (Nay là Chi nhánh B) số tiền gốc còn nợ và các khoản tiền lãi tạm tính đến ngày 11/01/2023 của 02 Hợp đồng tín dụng cụ thể:
- Hợp đồng tín dụng số 09.24.0004 ngày 16/3/2009:
+ Nợ gốc: 155.000.000.000 đồng (Một trăm năm mươi lăm tỷ đồng).
+ Các khoản nợ lãi: 149.013.271.616 đồng (Một trăm bốn mươi chín tỷ không trăm mười ba triệu hai trăm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm mười sáu đồng).
Tổng cả gốc và lãi: 304.013.271.616 đồng (Ba trăm linh tư tỷ không trăm mười ba triệu hai trăm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm mười sáu đồng).
- Hợp đồng tín dụng số 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014:
+ Nợ gốc: 57.576.688.241 đồng (Năm mươi bảy tỷ năm trăm bảy mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi tám nghìn hai trăm bốn mươi mốt đồng).
+ Các khoản nợ lãi: 38.248.239.061 đồng (Ba mươi tám tỷ hai trăm bốn mươi tám triệu hai trăm ba mươi chín nghìn không trăm sáu mươi mốt đồng).
Tổng cả gốc và lãi: 95.824.927.302 đồng (Chín mươi lăm tỷ tám trăm hai tư triệu chín trăm hai mươi bảy nghìn ba trăm linh hai đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của Ngân hàng N1.
Buộc Công ty G1 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N1 Chi nhánh H5 các khoản tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng dài hạn ngày 30/10/2008 tạm tính đến ngày 11/01/2023:
+ Nợ gốc: 8.970.302,82 USD (Tám triệu chín trăm bảy mươi nghìn ba trăm linh hai đô la Mỹ tám mươi hai cen), tương đương 211.699.146.552 đồng (Hai trăm mười một tỷ sáu trăm chín mươi chín triệu một trăm bốn mươi sáu nghìn năm trăm năm mươi hai đồng).
+ Các khoản nợ lãi: 6.847.147,78 USD (Sáu triệu tám trăm bốn mươi bảy nghìn một trăm bốn mươi bảy đô la Mỹ bảy mươi tám cen), tương đương 161.592.687.608 đồng (Một trăm sáu mươi mốt tỷ năm trăm chín mươi hai triệu sáu trăm tám mươi bảy nghìn sáu trăm linh tám đồng).
Tổng cả gốc và lãi là 15.817.450,60 USD (Mười lăm triệu tám trăm mười bảy nghìn bốn trăm năm mươi đô la Mỹ sáu mươi cen). Tương đương: 373.291.834.160 đồng (Ba trăm bảy mươi ba tỷ hai trăm chín mươi mốt triệu tám trăm ba mươi tư nghìn một trăm sáu mươi đồng).
(Tỷ giá quy đổi ngày 11/01/2023 là: 23.600 VNĐ/USD).
Đồng tiền trả nợ: USD (Đô la Mỹ).
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của Ngân hàng N1 về việc buộc Tổng Công ty G2 phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (trả nợ thay) cho Công ty Cổ phần G1 đối với dư nợ gốc còn lại của Hợp đồng tín dụng ngày 30/10/2008 là 8.970.302,82 và tiền lãi tạm tính đến ngày 11/01/2023 là: 6.847.147,78 USD tại Ngân hàng N1 - Chi nhánh H5.
4. Về xử lý tài sản bảo đảm:
Chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng TMCP C và Ngân hàng N1 về xử tài sản bảo đảm theo các Hợp đồng thế chấp tài sản cụ thể:
+ Trường hợp Công ty Cổ phần G1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP C theo 02 Hợp đồng tín dụng dụng số 09.24.0004 ngày 16/3/2009 và 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014 thì Ngân hàng có quyền đề nghị xử lý tài sản bảo đảm được thể hiện tại các Hợp đồng thế chấp tài sản: số 10.30.0037; số 10.30.0038; số 10.30.10.0041 ngày 22/4/2010 giữa Ngân hàng TMCP C Chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) với Công ty Cổ phần G1. Giá trị các tài sản bảo đảm được xác định tại thời điểm xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp Công ty Cổ phần G1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP C theo 02 Hợp đồng tín dụng số 09.24.0004 ngày 16/3/2009 và 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014 và không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng N1 theo Hợp đồng tín dụng dài hạn ngày 30/10/2008 thì các Ngân hàng có quyền đề nghị xử lý tài sản bảo đảm được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/09/2012 giữa Ngân hàng V1 chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) và Ngân hàng A Chi nhánh H5 với Công ty Cổ phần G1 (Tỷ lệ xử lý tài sản thế chấp là: V1 Chi nhánh Đ (B) 49,1%; A Chi nhánh H5). Giá trị các tài sản bảo đảm được xác định tại thời điểm xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục duy trì 04 Hợp đồng thế chấp tài sản: số 10.30.0037; số 10.30.0038; số 10.30.10.0041 ngày 22/4/2010 và số 12.39.0039/HĐTC ngày 10/09/2012 để đảm bảo cho việc thi hành án.
Trường hợp xử lý các tài sản bảo đảm theo các Hợp đồng thế chấp trên không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi thì Công ty Cổ phần G1 tiếp tục phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc dùng các tài sản khác để trả nợ theo quy định của pháp luật Không xử lý các tài sản bảo đảm được thể hiện tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 248.10.39.0035/HĐTC- BBP ngày 05/3/2014 giữa bên thế chấp Công ty Cổ phần G1 và bên nhận thế chấp là Ngân hàng C - Chi nhánh Đ (nay là chi nhánh B) do hiện nay các tài sản bảo đảm thể hiện tại Hợp đồng thế chấp này không còn.
Kể từ ngày 12/01/2023 cho đến khi thi hành án xong, Công ty Cổ phần G1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên đã thỏa thuận tại các Hợp đồng tín dụng: số 09.24.0004 ngày 16/3/2009 và số 14.39.0006 - HĐTDHM ngày 19/6/2014 giữa Ngân hàng TMCP C Chi nhánh Đ (nay là Chi nhánh B) với Công ty Cổ phần G1 và Hợp đồng tín dụng dài hạn ngày 30/10/2008 giữa Ngân hàng N1 Chi nhánh H5 với với Công ty Cổ phần G1.
5. Về án phí sơ thẩm: Công ty cổ phần G6 phải chịu 881.130.000 đồng (T6 trăm tám mươi mốt triệu một trăm ba mươi nghìn đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Ngân hàng TMCP C và Ngân hàng N1 không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP C số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 160.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000946 ngày 01/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Hoàn trả lại cho Ngân hàng N1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 160.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0001007 ngày 19/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
6. Về chi phí tố tụng: Công ty Cổ phần G1 phải chịu 34.600.000 đồng (Ba mươi tư triệu sáu trăm nghìn đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Xác nhận Ngân hàng TMCP C và Ngân hàng N1 đã nộp đủ số tiền chi phí tố tụng trên. Công ty Cổ phần G1 có nghĩa vụ hoàn trả số tiền chi phí tố tụng cho mỗi Ngân hàng là 17.300.000 đồng (Mười bảy triệu ba trăm nghìn đồng).
7. Về án phí phúc thẩm: Công ty Cổ phần G1 phải chịu 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm, số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) Công ty Cổ phần G1 đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0001293 ngày 18/01/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ được trừ vào tiền án phí phúc thẩm. Công ty Cổ phần G1 còn phải nộp tiếp số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 04/2023/KDTM-PT
Số hiệu: | 04/2023/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 24/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về