Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PƯH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 03/2022/DS-ST NGÀY 14/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 14 tháng 02 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 193/2021/TLST- DS ngày 14 tháng 10 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2021/QĐXXST - DS ngày 23 tháng 12 năm 2021; quyết định hoãn phiên toà số 03/2022/QĐST-DS ngày 10/01/2022; thông báo chuyển ngày xét xử số 01/TA-DS ngày 24/01/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Công thương Việt Nam

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đức T - Chủ tịch HĐQT Địa chỉ: 108 Trần Hưng Đạo, thành phố HN

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Anh Q – Phó giám đốc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai Địa chỉ: 01 đường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai (Theo văn bản uỷ quyền số 266/UQ-HĐQT-NHCT18, ngày 16/3/2020).

Người được uỷ quyền lại tham gia tố tụng: Ông Trần Văn P – Trưởng phòng giao dịch CP– Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai.

Bị đơn: Ông Hồ Văn L, sinh năm 1969 Địa chỉ: Thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Thị N, sinh năm 1972 Địa chỉ: Thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/9/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Sau đây gọi tắt là Ngân hàng) trình bày:

Theo hợp đồng cho vay từng lần số 853/2017-HĐCVTL/NHCT500- HOVANLOI ngày 29/6/2017, thì Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai – Phòng giao dịch CP cho ông Hồ Văn L vay số tiền 200.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày rút vốn (Từ ngày 29/6/2017 đến 29/6/2018), ngày giải ngân là ngày 29/6/2017, mục đích vay để trồng mới và chăm sóc tiêu. Lãi suất cho vay trong hạn là 10,8%/năm (Áp dụng lãi suất ưu đãi 06 tháng đầu tiên là 8.5%/năm), lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, tiền lãi phải trả hàng tháng vào ngày 29 của tháng.

Theo hợp đồng cho vay từng lần số 1127/2017-HĐCVTL/NHCT500- HOVANLOI ngày 08/9/2017, thì Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai – Phòng giao dịch CP cho ông Hồ Văn L vay số tiền 200.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày rút vốn (Từ ngày 08/9/2017 đến 08/9/2018), ngày giải ngân là ngày 08/9/2017, mục đích vay để chăn nuôi dê thịt. Lãi suất cho vay trong hạn là 10,8%/năm (Áp dụng lãi suất ưu đãi 06 tháng đầu tiên là 8.0%/năm), lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, tiền lãi phải trả hàng tháng vào ngày 10 của tháng.

Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 24611/HĐTC ngày 12/06/2014, đã được chứng thực tại UBND Xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai ngày 12/06/2014 để đảm bảo cho khỏan vay tại hợp đồng tín dụng số 853/2017-HĐCVTL/NHCT500-HOVANLOI ngày 29/06/2017, ông L và bà N đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:

Giá trị quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại Thôn 2, xã IB, huyện CS (Nay là thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP), tỉnh Gia Lai; Thửa đất số: 66, tờ bản đồ số: 27 theo giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số AK610961 do UBND huyện CS, Tỉnh Gia Lai cấp ngày 07/12/2007.

Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1127/HĐTC ngày 07/09/2017, đã được công chứng tại Văn phòng công chứng Lương Thanh Đ ngày 07/09/2017 để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại Hợp đồng cho vay từng lần số 1127/2017-HĐCVTL/NHCT500-HO VAN LOI ngày 08/09/2017, ông L và bà N đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:

Giá trị quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại Thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai; Thửa đất số: 68 và thửa đất số 167; tờ bản đồ số 69 theo giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 869805 do UBND huyện CP, Tỉnh Gia Lai cấp ngày 14/07/2017.

Sau khi ký kết hợp đồng cho vay từng lần số 853/2017-HĐCVTL/NHCT500- HOVANLOI ngày 29/06/2017 và hợp đồng cho vay từng lần số 1127/2017- HĐCVTL/NHCT500-HO VAN LOI ngày 08/09/2017, ngân hàng đã giải ngân tiền vay cho ông L theo đúng thoả thuận. Quá trình thực hiện hợp đồng ông L đã trả cho Ngân hàng 700.000 đồng tiền nợ gốc của hợp đồng tín dụng số 1127/2017- HĐCVTL/NHCT500-HOVANLOI ngày 08/09/2017 và 3.000.000 đồng tiền nợ gốc của hợp đồng tín dụng số 853/2017-HĐCVTL/NHCT500-HOVANLOI ngày 29/06/2017. Tổng số tiền lãi ông L đã trả cho Ngân hàng là 38.201.164 đồng (Bao gồm cả lãi trong hạn và lãi quá hạn). Tính đến thời điểm xét xử vụ án, ngày 14/02/2022 ông Hồ Văn L còn nợ ngân hàng tổng số tiền là 611.088.368 đồng.

Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án nhân dân huyện CP giải quyết buộc ông Hồ Văn L và bà Phan Thị N phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai tiền nợ gốc, lãi tính đến ngày 14/02/2022 và chi phí khác cụ thể như sau:

Nợ gốc và lãi phải trả là 611.088.368 đồng. Trong đó, nợ gốc là 396.300.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 142.850.094 đồng; tiền lãi quá hạn là 71.938.274 đồng; chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ với số tiền 4.000.000 đồng. (Nguyên đơn không yêu cầu tính lãi chậm thi hành án đối với khoản tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và lãi xuất phạt chậm trả lãi tối đa bằng 10%/ năm mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng).

Trong trường hợp ông L, bà N không thanh toán toàn bộ số nợ gốc, lãi và các chi phí khác như đã nêu trên, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý, phát mãi tài sản đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1127/HĐTC ngày 07/09/2017 và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 24611/HĐTC ngày 12/06/2014, đã được các bên ký kết để thu hồi nợ.

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã nhiều lần triệu tập, thông báo và niêm yết đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hồ Văn L và bà Phan Thị N đều vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã triệu tập hợp lệ để ông L, bà N đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông, bà tiếp tục vắng mặt, không có lời khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì để Hội đồng xét xử xem xét.

Qua buổi xem xét thẩm định tại chỗ vào ngày 18/11/2021, Tòa án nhân dân huyện CP xác định như sau: Tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ thì quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại Thôn Phú Hà, xã Ia B, huyện CP, tỉnh Gia Lai; thửa đất số 68 và thửa đất số 167, tờ bản đồ số 69 theo giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 869805 do UBND huyện CP, Tỉnh Gia Lai cấp ngày 14/07/2017. Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại Thôn 2, xã IB, huyện CS (Nay là thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP), tỉnh Gia Lai; thửa đất số 66, tờ bản đồ số 27 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 610961 do UBND huyện CS, tỉnh Gia Lai cấp ngày 07/12/2007, chưa có phát sinh việc tranh chấp với bên thứ ba.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CP, tỉnh Gia Lai như sau:

Về việc tuân theo pháp luật của cơ quan và người tiến hành tố tụng: Đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án và cung cấp đầy đủ chứng cứ đảm bảo theo đúng quy định.

Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Về phần nội dung: Căn cứ các Điều 280, 463, 465, 466, 468 Bộ luật Dân sựĐiều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 156, 157, 158 Bộ luật Tố tụng dân sự:

Buộc bị đơn ông Hồ Văn L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị N có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai số tiền nợ gốc là 396.300.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo các hợp đồng tín dụng hai bên đã ký kết. Trường hợp ông L, bà N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì nguyên đơn có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Buộc ông L, bà N phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ theo quy định của pháp luật, hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện CP, tỉnh Gia Lai giải quyết Tranh chấp Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với bị đơn ông Hồ Văn L có địa chỉ tại thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện CP, tỉnh Gia Lai.

Tại phiên tòa, bị đơn ông Hồ Văn L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị N vắng mặt đến lần thứ hai không vì trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

Theo các hợp đồng tín dụng số 853/2017-HĐCVTL/NHCT500-HOVANLOI ngày 29/06/2017 và hợp đồng tín dụng số 1127/2017-HĐCVTL/NHCT500- HOVANLOI ngày 08/09/2017, thì Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai cho ông Hồ Văn L vay tổng số tiền 400.000.000 đồng, thời hạn cho vay là 12 tháng kể từ ngày giải ngân khoản nợ đầu tiên, lãi suất cho vay trong hạn là 10,8%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Áp dụng lãi xuất ưu đãi 06 tháng đầu tiên với mức từ 8%/năm đến 8,5%/năm (Được xác định theo từng hợp đồng tín dụng cụ thể).

Ngân hàng đã giải ngân tiền vay cho ông L theo đúng thỏa thuận. Tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm, ông L còn nợ Ngân hàng tổng cộng là 611.088.368 đồng (Sáu trăm mười một triệu, không trăm tám mươi tám ngàn, ba trăm sáu mươi tám đồng). Trong đó, nợ gốc là 396.300.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 142.850.094 đồng; tiền lãi quá hạn là 71.938.274 đồng. Kể từ khi vay tiền đến nay, ông Lợi chỉ trả cho Ngân hàng số tiền gốc là 3.700.000 đồng và 38.201.164 đồng tiền lãi (Bao gồm cả lãi trong hạn và lãi quá hạn), sau đó không thanh toán lãi và gốc theo như thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng mà hai bên đã kí kết. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả tiền nợ lãi, nợ gốc nên nguyên đơn đã chuyển toàn bộ các khoản nợ trên sang nợ quá hạn vào các ngày 29/6/2018 và 10/9/2018 (Xác định theo từng hợp đồng cụ thể). Ngân hàng đã nhiều lần làm việc và thông báo chuyển nợ quá hạn, yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng ông L không thanh toán nợ. Như vậy, ông L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ quy định tại khoản 1 Điều 466, khoản 2 Điều 470 Bộ luật Dân sự.

Nợ gốc và lãi phải trả là 611.088.368 đồng. Trong đó, nợ gốc là 396.300.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 142.850.094 đồng; tiền lãi quá hạn là 71.938.274 đồng.

Lãi suất được tính theo thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng.

Xét thấy, tại thời điểm giao kết hợp đồng tín dụng ông Hồ Văn L và bà Phan Thị N là vợ chồng hợp pháp, mục đích vay tiền để làm kinh tế gia đình. Do vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Hồ Văn L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị N phải liên đới trả cho nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 14/02/2022 tổng cộng là 611.088.368 đồng. Trong đó, nợ gốc là 396.300.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 142.850.094 đồng; tiền lãi quá hạn là 71.938.274 đồng.

[3]. Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của nguyên đơn trong trường hợp bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi cho nguyên đơn:

Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 24611/HĐTC ngày 12/06/2014, đã được chứng thực tại UBND Xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai ngày 12/06/2014 để đảm bảo cho khoản vay tại hợp đồng tín dụng số 853/2017-HĐCVTL/NHCT500-HOVANLOI ngày 29/06/2017, ông L và bà N đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:

Giá trị quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thôn 2, xã IB, huyện CS (Nay là thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP), tỉnh Gia Lai; thửa đất số 66, tờ bản đồ số 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 610961 do UBND huyện CS, tỉnh Gia Lai cấp ngày 07/12/2007. Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1127/HĐTC ngày 07/09/2017, đã được công chứng tại Văn phòng công chứng Lương Thanh Đ ngày 07/09/2017 để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại hợp đồng cho vay từng lần số 1127/2017- HĐCVTL/NHCT500-HOVANLOI ngày 08/09/2017, ông L và bà N đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:

Giá trị quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai; thửa đất số 68 và thửa đất số 167, tờ bản đồ số 69 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 869805 do UBND huyện CP, Tỉnh Gia Lai cấp ngày 14/07/2017.

Qua buổi xem xét, thẩm định tại chỗ vào ngày 18/11/2021, Tòa án nhân dân huyện CP xác định như sau: Tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ thì quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP, tỉnh Gia Lai; thửa đất số 68 và thửa đất số 167, tờ bản đồ số 69 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 869805 do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 14/07/2017. Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thôn 2, xã IB, huyện CS (Nay là thôn Phú Hà, xã IB, huyện CP), tỉnh Gia Lai; thửa đất số 66, tờ bản đồ số 27 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 610961 do UBND huyện CS, tỉnh Gia Lai cấp ngày 07/12/2007, chưa có phát sinh việc tranh chấp với bên thứ ba.

Xét thấy, hình thức và nội dung của các hợp đồng thế chấp phù hợp với quy định tại các Điều 292, 293, 295, 298, 317, 318 và Điều 319 Bộ luật Dân sự nên có hiệu lực pháp luật.

Bên thế chấp dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản nợ gốc, lãi và tất cả các nghĩa vụ liên quan khác. Theo quy định tại khoản 6 Điều 320 và khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Dân sự thì trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên thế chấp phải giao tài sản thế chấp để xử lý. Vì vậy, yêu cầu của Ngân hàng đề nghị xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản vay tại các hợp đồng tín dụng nêu trên để thu hồi nợ khi ông L, bà N không trả hết nợ cho Ngân hàng là có căn cứ, đúng pháp luật nên cần chấp nhận.

[4]. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng, ông Hồ Văn L và bà Phan Thị N phải liên đới chịu. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng chi phí này nên cần buộc ông L, bà N có nghĩa vụ thanh toán lại 4.000.000 đồng cho nguyên đơn là phù hợp với các Điều 156, 157 và khoản 2 Điều 158 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[5]. Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước, hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 40, Điều 144, Điều 147, Điều 156, Điều 157, khoản 1 Điều 158, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 292, 293, 295, 298, 299, 317, 318, 319, 320, 322, 357, 463, 466, 468 và Điều 470 của Bộ luật Dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Áp dụng các Điều 90, 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Buộc bị đơn ông Hồ Văn L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị N có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai số tiền nợ gốc và nợ lãi tính đến ngày 14/02/2022 tổng cộng là 611.088.368 đồng (Sáu trăm mười một triệu, không trăm tám mươi tám ngàn, ba trăm sáu mươi tám đồng). Trong đó, nợ gốc là 396.300.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 142.850.094 đồng; tiền lãi quá hạn là 71.938.274 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này’’. (Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay).

2. Trường hợp ông Hồ Văn L và bà Phan Thị N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ gốc và lãi cho nguyên đơn thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý, phát mãi tài sản thế chấp mà ông L, bà N đã thế chấp theo các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 24611/HĐTC ngày 12/06/2014 và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1127/HĐTC ngày 07/09/2017, đã được các bên ký kết để thu hồi nợ.

3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc ông Hồ Văn L và bà Phan Thị N có nghĩa vụ liên đới thanh toán lại chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai.

4. Về án phí: Buộc ông Hồ Văn L và bà Phan Thị N phải liên đới chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là 28.443.534 đồng (Hai mươi tám triệu, bốn trăm bốn mươi ba ngàn, năm trăm ba mươi bốn đồng); (611.088.368 đồng = 20.000.000 đồng + 211.088.368 đồng x 4%. = 28.443.534 đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.275.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005620 ngày 12/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CP, tỉnh Gia Lai.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2022/DS-ST

Số hiệu:03/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Pưh - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về