Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 01/2021/DS-ST NGÀY 10/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 10 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Văn Bàn, Toà án nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 09/2021/TLST-DS ngày 17 tháng 6 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-DS ngày 26/08/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP BđLV.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Doãn S - Chức vụ: Tổng giám đốc. Địa chỉ: Tầng 1,3,4,5,6 Tòa nhà Thaiholdings Tower số 210 Trần Quang Khải, phường Tràng Tiền, quận H Kiếm, TP. Hà Nội Việt Nam.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tiến H - Chức vụ: Giám đốc. Địa chỉ: Số nhà 151 Hg Liên, Phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Người được ủy quyền lại tham gia tố tụng: Bà Phạm Thị Lan A - Chức vụ: Giám đốc PGD. Đa chỉ: Số 47 Trần Phú, tổ 7, thị trấn Kh Y, huyện VB, tỉnh LC. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn:

+ Bà Trần Thị Ch, sinh ngày 27/01/1986. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Nà B, xã LG, huyện VB, tỉnh LC. Đơn vị công tác: Trường Mầm Non LG (đã nghỉ việc), xã LG, huyện VB, tỉnh LC. Vắng mặt có lý do.

+ Ông Nguyễn Văn H, sinh ngày 06/6/1982. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Nà B, xã LG, huyện VB, tỉnh LC.( Các bị đơn đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người làm chứng: bà Nguyễn Thị Th - Hiệu trưởng trường Mầm Non LG. Đa chỉ: Tổ 2, thị trấn KhY, huyện VB, tỉnh LC. Vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện nộp ngày 13/6/2021, bản tự khai, lời khai và quá trình giải quyết vụ án, người nhận được ủy quyền lại của Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, quan điểm của bà Phạm Thị Lan A trình bày:

Ngày 18/3/2020 Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (viết tắt là Ngân hàng) ký hợp đồng tín dụng số 97A202012 cho bà Ch và ông H vay số tiền 100.000.000đ, mục đích sử dụng tiền vay để tiêu dùng và mua sắm đồ gia dụng, không có tài sản bảo đảm, lãi suất 1,24%/tháng, tương đương với 14,85%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, thời hạn cho vay là 60 tháng, kỳ hạn trả nợ gốc và trả lãi hàng tháng vào ngày 20 hàng tháng, thời hạn tất toán đến ngày 18/3/2025.

Theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số 97A202012 ngày 18/3/2020 giữa Ngân hàng với bà Ch và ông H thì bà Ch và ông H đã liên đới trả tiền gốc được 09 kỳ, cụ thể: Từ ngày 21/4/2020 đến ngày 29/11/2020 thì tự ý ngừng, ngắt quãng không trả. Ngày 02/01/2021 Ngân hàng đã thông báo nợ quá hạn lần thứ nhất thì đến ngày 04/5/2021 bà Ch trả được số tiền 5.000.000đ để thanh toán cho kỳ hạn ngày 20/12/2020 (trong số 5.000.000đ này trả vào tiền gốc là 3.340.000đ, tiền lãi 1.660.000đ). Tổng số tiền gốc trả được 09 kỳ = 16.700.000đ tiền gốc. Ngoài ra trả được tiền lãi của 09 kỳ này. Tuy nhiên, Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, bà Ch và ông H đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi cho ngân hàng theo HĐTD số 97A202012, tự ý ngừng trả nợ gốc và lãi nên Ngân hàng căn cứ vào HĐTD số 97A202012 đã thông báo nợ quá hạn lần thứ hai vào ngày 23/3/2021; lần thứ ba vào ngày 05/5/2021 cho bà Ch và ông H biết để thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền gốc là 83.300.000đ nên toàn bộ khoản vay bị chuyển nợ quá hạn ngày 21/12/2020 đến ngày 10/9/2021, tổng số tiền gốc và lãi là 91.769.749 đồng (trong đó bao gồm: Nợ gốc 83.300.000đ, tiền lãi tính từ thời điểm quá hạn đến ngày 10/9/2021 là 8.469.749 đồng).

Đề nghị Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H phải liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt số tiền nợ gốc hiện tại là 83.300.000 đồng và 8.469.749 đồng tiền lãi phát sinh tính đến ngày 10/9/2021. Tổng cộng là 91.769.749 đồng (Chín mươi một triệu, bảy trăm sáu mươi chín nghìn bảy trăm bốn chín đồng).

Ngoài ra buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H phải có nghĩa vụ liên đới phải chịu khoản tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thực tế thanh toán hết khoản nợ (tất toán khoản vay) theo mức lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 97A202012 ngày 18/3/2020 giữa Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt - Chi nhánh Lào Cai với bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H.

Bị đơn là bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H đã được Tòa án tiến hành cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng của Tòa án cho bà Ch và ông H đầy đủ, đảm bảo theo quy định của pháp luật, đã viết bản tự khai. Tuy nhiên, do bà Ch, ông H đang ở vùng dịch covid19 không về tham gia tố tụng tại phiên tòa được đều có đơn xin xét xử vắng mặt, trình bày ý kiến quan điểm không phản tố, nhất trí theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đồng ý trả tổng số tiền gốc và lãi , tổng số tiền gốc và lãi là 91.769.749 đồng (trong đó bao gồm: Nợ gốc 83.300.000đ, tiền lãi tính từ thời điểm quá hạn đến ngày 10/9/2021 là 8.469.749 đồng) của hợp đồng tín dụng số 97A202012 ngày 18/3/2020 cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng Dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng Dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank): Buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H phải liên đới trả cho ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt tiền nợ gốc là 83.300.000 đồng, lãi phát sinh tính đến ngày 10/9/2021 là 8.469.794 đồng, tổng cộng là 91.769.749 đồng và tiền lãi phát sinh sau ngày 10/9/2021 theo mức lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng khiêm khế ước nhận nợ HDTD97A202012 ngày 18/3/2021 cho đến khi bà Ch và ông H thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

Về án phí sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng, thẩm quyền giải quyết vụ án:

[1.1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ có đơn xin xét xử vắng mặt, Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp cần giải quyết trong vụ án là tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về dân sự. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.

[2.1] Xét về nội dung hợp đồng tín dụng: Ngày 18/3/2020, Ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng với bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H số 97A202012 số tiền cấp tín dụng là 100.000.000đ, không có tài sản bảo đảm, mục đích sử dụng tiền vay để tiêu dùng và mua sắm đồ gia dụng, lãi xuất 1,24%/tháng, tương đương với 14,85%/năm, lãi quá hạn bằng 150%, thời hạn cho vay là 60 tháng, kỳ hạn trả nợ gốc và trả lãi hàng tháng vào ngày 20 hàng tháng, thời hạn tất toán đến ngày 18/3/2025.

Ngày 18/3/2020 bà Ch và ông H đã nhận nợ 100.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 97A202012. Về hình thức hợp đồng tín dụng này tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự, các bên tự nguyện tham gia ký kết, không bị ai ép buộc, về hình thức và nội dung giao kết tại thời điểm xác lập phù hợp với quy định tại Điều 1, Điều 2 của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, ngày 30/12/2016 của ngân hàng nhà nước và mục 3 phần I của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bộ Tư Pháp, Bộ Tài Chính, cho nên hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Xét thấy, bà Ch và ông H thực hiện không đúng theo giao kết, đã vi phạp hợp đồng mà các bên đã ký kết, bà Ch và ông H là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật

[2.2] Quá trình thực hiện hợp đồng: Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt – chi nhánh Lào Cai đã tiến hành giải ngân số tiền cấp tín dụng là 100.000.000đ cho bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H theo Hợp đồng tín dụng số 97A202012 ngày 18/3/2020. Quá trình thực HĐTD số 97A202012 bà Ch và ông H tự ý ngừng thực hiện hợp đồng tín dụng đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, Ngân hàng đã thông báo nợ quá hạn lần thứ nhất thì đến ngày 04/5/2021, bà Ch trả được số tiền 5.000.000đ để thanh toán cho kỳ hạn ngày 20/12/2020(trong số 5.000.000đ này trả vào tiền gốc là 3.340.000đ, tiền lãi 1.660.002đ), sau đó tiếp tục ngừng trả nợ gốc và lãi. Ngân hàng đã thông báo nợ quá hạn lần thứ hai vào ngày 23/3/2021; lần thứ ba vào ngày 05/5/2021 cho bà Ch và ông H biết để thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền gốc là 83.300.000đ và tiền lãi của số tiền gốc tương ứng với thời gian chậm trả gốc và lãi, nên toàn bộ khoản vay bị chuyển nợ quá hạn tính từ ngày 21/12/2020 đến ngày 10/9/2021 bà Ch và ông H còn phải liên đới trả tổng cộng tiền lãi 8.469.749 đồng cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt. Như vậy, bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H đã vi phạm hợp đồng, không thực hiện nghĩa vụ trả gốc, lãi theo hợp đồng TD97A202012 ngày 18/3/2020 còn nợ các khoản:

Số tiền 83.300.000đ (tiền gốc) + 8.469.749 đồng (tiền lãi) = 91.769.749 đồng.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng Ngân hàng giải ngân cho bà Ch, ông H vay tổng số tiền 100.000.000đ. Bà Ch, ông H phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ gốc hàng tháng là 1.670.000đ và trả lãi hàng tháng tương ứng với số tiền gốc còn nợ và trả tất vốn vay khi đến hạn hợp đồng, nhưng từ khi vay cho đến ngày 20/11/2020 bà Ch, ông H chỉ trả gốc và lãi cho Ngân hàng được một thời gian thì ngưng không trả gốc và lãi từ ngày 21/11/2020 đến ngày 03/5/2021 là 05 tháng 03 ngày, trong thời gian này ngân hàng đã thông báo cho bà Ch, ông H biết khoản nợ gốc và lãi của bà Ch, ông H bị chuyển thành nợ quá hạn. Đến ngày 04/5/2021, bà Ch trả được số tiền 5.000.000đ để thanh toán cho kỳ hạn ngày 20/12/2020(trong số 5.000.000đ này trả vào tiền gốc là 3.340.000đ, tiền lãi 1.660.002đ) rồi tiếp tục ngừng không trả gốc và lãi từ ngày 21/12/2020. Ngân hàng đã thông báo nợ quá hạn lần thứ hai vào ngày 23/3/2021; lần thứ ba vào ngày 05/5/2021 cho bà Ch và ông H biết để thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền gốc và lãi cho Ngân hàng mà bà Ch, ông H vẫn không thực hiện gây ảnh hưởng, xâm phạm đến quyền lợi của Ngân hàng. Bà Ch và ông H thực hiện không đúng theo giao kết, đã vi phạm hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết. Ngân hàng xác định tính đến ngày 10/9/2021 bà Ch và ông H còn nợ phải trả tổng số tiền là 91.769.749 đồng, (trong đó dư nợ gốc: 83.300.000 đồng, tổng tiền lãi là 8.469.749 đồng).

Đề nghị Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H phải liên đới thực hiện nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt – chi nhánh Lào Cai số tiền nợ gốc 83.300.000 đồng và số tiền lãi phát sinh tính đến ngày 10/9/2021 là 8.469.749 đồng. Tổng cộng là 91.769.749 đồng (Chín mươi một triệu, bảy trăm sáu mươi chín nghìn bảy trăm bốn chín đồng) theo Hợp đồng tín dụng số 97A202012 ngày 18/3/2020 và tiền lãi phát sinh được tính tiếp sau ngày xét xử cho đến ngày bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H liên đới trả tất nợ cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt – chi nhánh Lào Cai.

Ngoài ra buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H phải có nghĩa vụ liên đới phải chịu khoản tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thực tế thanh toán hết khoản nợ (tất toán khoản vay) theo mức lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 97A202012 ngày 18/3/2020 giữa Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt - Chi nhánh Lào Cai với bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H. Việc cho vay, cách tính lãi suất của ngân hàng là phù hợp với quy định của pháp luật và hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết. Như vậy là có căn cứ chấp nhận cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H phải liên đới trả các khoản tiền nợ trên.

[4] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận

[5] Về nghĩa vụ chịu án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 2 Điều 92; Điều 144; Khon 1 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự Căn cứ Điều 117; Điều 119; Điều 398; Điều 463; Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Điều 95 của Luật các Tổ chức tín dụng.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1Về nghĩa vụ trả nợ: Buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt số tiền nợ gốc 83.300.000 đồng và số tiền lãi phát sinh tính đến ngày 10/9/2021 là 8.469.749 đồng. Tổng cộng là 91.769.749 đồng (Chín mươi một triệu, bảy trăm sáu mươi chín nghìn bảy trăm bốn chín đồng) theo Hợp đồng tín dụng số 97A202012 ngày 18/3/2020 và tiền lãi phát sinh được tính tiếp sau ngày xét xử cho đến ngày bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H liên đới trả tất nợ cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thi hành xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà Trần Thị Ch và ông Nguyễn Văn H phải liên đới chịu 4.588.487đ đồng (Bốn triệu, năm trăm tám mươi tám nghìn, bốn trăm tám mươi bảy đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, H trả lại cho Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.199.000 đồng (Hai triệu một trăm chín mươi chín nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004155 ngày 17/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2021/DS-ST

Số hiệu:01/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Bàn - Lào Cai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về