TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 10/2023/KDTM-PT NGÀY 26/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG, HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP
Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 10/2023/TLPT-KDTM ngày 10 tháng 8 năm 2023, về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 09/2023/QĐ-PT ngày 17 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần N.
Trụ sở chính: Số 198 Trần Quang K, phường L, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quang D, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông L Văn T, chức vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần N – Chi nhánh B.
Địa chỉ liên hệ: Số 49 Hòa B, Phường 1, thành phố B, tỉnh B.
Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L.
Địa chỉ trụ sở: số 148, đường Hòa B, Khóm 4, Phường 3,thành phố B, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Khắc N, chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Quang M, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 489 ấp Bình L, xã Bình K, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Trần Ch, sinh năm 1952; Địa chỉ: Ấp N, xã Thạnh Q, huyện M, tỉnh S;
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Ch: Ông Trần Văn V, sinh năm 1954; Địa chỉ: Số 52, Đường Nguyễn Văn L, Khóm 10, Phường 1, thành phố B, tỉnh B.
2/ Văn phòng công chứng Trần Văn N; địa chỉ: Số 30, Nguyễn Trung T, Khóm 1, Phường 2, thành phố S, tỉnh S.
3/ Bà Diệp Thị Út H, sinh năm 1976; địa chỉ: Ấp N, xã Thạnh Q, huyện M, tỉnh S.
4/ Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1991
5/ Bà Hồ Mỹ L, sinh năm 1990 Cùng địa chỉ: Ấp Xẻo N, xã Hưng T, huyện V, tỉnh B Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L: Ông Trần Quang M, sinh năm 1989. Địa chỉ: Số 489 ấp Bình Lợi, xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.
6/ Ông Ngô Hoàng L, sinh năm 1979
7/ Bà Quách Thanh Đ, sinh năm 1982 HKTT: Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
Chỗ ở hiện nay: Trại tôm giống Lộ H, xã Hòa T, huyện M, tỉnh S.
8/ Em Ngô Quách T, sinh năm 2005. Người đại diện theo pháp luật của em Thảo: Ông Ngô Hoàng L và bà Quách Thanh Đ là cha mẹ ruột của em T.
9/ Cụ Ngô Minh Th, sinh năm 1929
10/ Cụ Trần Thị Th, sinh năm 1940
11/ Ông L Hoàng P, sinh năm 1962
12/ Bà Ngô Hoàng N, sinh năm 1968
13/ Anh Lâm Bạch L, sinh năm 1989
14/ Chị Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1990 15/ Chị Lâm Ngọc Nh, sinh năm 1995 16/ Ông Phan Thành C, sinh năm 1959
17/ Bà Ngô Hoàng O, sinh năm 1960
18/ Chị Phan Kim D, sinh năm 1978
19/ Anh Phan Ngọc Ph, sinh năm 1983 20/ Anh Phan Ngọc L, sinh năm 1985
21/ Bà Ngô Hoàng Y, sinh năm 1962 Cùng địa chỉ: Ấp 2, xã Phong Thạnh Đ (nay là khóm 2, phường L), thị xã G, tỉnh B.
22/ Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh S; Địa chỉ: Số 18, Đường H, phường 6, thành phố S, tỉnh S.
23/ Ông Lộ Tấn X; sinh năm 1983; Địa chỉ: Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B, Nơi ở hiện nay: Trại tôm giống Lộ H, xã Hòa T, huyện M, tỉnh S.
24/ Bà Trần Bạch T, sinh năm 1951
25/ Bà Phạm Thị Kiều T, sinh năm 1987
26/ Ông Lại Ngọc Hoài A, sinh năm 1982 Cùng địa chỉ: Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
(Ông T, ông Ch, ông V, bà T có mặt; người đại diện theo ủy quyền của công ty L, người đại diện theo ủy quyền của ông T và bà L, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh S, Văn phòng công chứng Trần Văn N, bà H, ông L, bà Đ, cháu Th, cụ Th, cụ T, ông Ph, bà Nh, anh L, chị T, chị N1, ông C, bà O, anh L, chị D, anh Ph, bà Y, ông X, bà Tr và ông A vắng mặt).
- Người kháng cáo: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L là bị đơn, ông Trần Ch, ông Nguyễn Minh T, bà Hồ Mỹ L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng tại Tòa án đại diện theo ủy quyền Ngân hàng Thương mại Cổ phần N trình bày:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần N (gọi tắt là ngân hàng N) – Chi nhánh B và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L (gọi tắt là công ty L) có ký kết Hợp đồng tín dụng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020,với hạn mức cho vay là 10.370.000.000 đồng; mục đích vay: Bổ sung vốn lưu động kinh doanh dịch vụ cầm đồ; thời hạn vay của mỗi khoản nợ tối đa là 06 tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân vốn vay và được ghi trên từng Giấy nhận nợ; lãi suất vay: được xác định tại thời điểm giải ngân theo thông báo lãi suất của Bên cho vay trong từng thời kỳ và được ghi trên từng Giấy nhận nợ. Vào các ngày 06/11/2020 và ngày 31/12/2020, công ty L đã ký giấy nhận nợ số 10 và số 11 thể hiện đã nhận đủ số tiền vốn vay là 10.370.000.000 đồng. Thời hạn vay theo giấy nhận nợ là 05 tháng, lãi suất cố định là 09%/năm. Để đảm bảo các khoản vay, Bên vay đã ký các hợp đồng thế chấp gồm:
Hợp đồng thế chấp số 502/VCB.BLI.18 ngày 25/12/2018 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Ngô Hoàng L;
Hợp đồng thế chấp số 71/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 71/VCB.BLI.19 ký ngày 06/3/2019 giữa Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh B và ông Nguyễn Minh T cùng bà Hồ Mỹ L số 01/71/VCB.BLI.19 ngày 06/8/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L;
Hợp đồng thế chấp số 72/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng trên, công ty L chưa thanh toán được số tiền nợ vốn và lãi cho Ngân hàng N nên công ty L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng N nên Ngân hàng N khởi kiện yêu cầu công ty L thanh toán cho Ngân hàng N số tiền nợ tính đến hết ngày 18/5/2023 là 13.308.873.712 đồng, trong đó vốn gốc là 10.370.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.047.673.754 đồng, lãi quá hạn là 891.199.958 đồng và các khoản lãi, chi phí phát sinh tính theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết kể từ ngày 19/5/2023 cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ vay cho Ngân hàng. Trong trường hợp công ty L không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng N được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm đã thế chấp để Ngân hàng N thu hồi nợ, không yêu cầu gì khác.
Trong quá trình tố tụng cấp sơ thẩm, Công ty L là bị đơn không trình bày ý kiến, nhưng tại phiên tòa ngày 28/3/2023, đại diện theo uỷ quyền của bị đơn có ý kiến trình bày: Công ty L thừa nhận có vay Ngân hàng N số tiền 10.370.000.000 đồng theo Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và giấy nhận nợ số 10 và 11 vào ngày 06/11/2020 và ngày 31/12/2020. Tài sản thế chấp để bảo đảm khoản tiền vay được ký kết theo các hợp đồng thế chấp như Ngân hàng N trình bày. Tuy nhiên, do các hạn mục đầu tư của công ty L đang gặp khó khăn nên công ty L đã không thanh toán được khoản nợ nào cho Ngân hàng N nên đối với yêu cầu của Ngân hàng N về việc thanh toán tiền vốn gốc và lãi thì công ty L đồng ý thanh toán nợ cho Ngân hàng N nhưng xin được giảm một phần tiền lãi. Đồng thời, trong trường hợp không trả được nợ thì công ty L Yên Phi đồng ý việc xử lý các tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng N, không có yêu cầu gì khác.
Theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và các lời khai trong quá trình tố tụng tại Tòa án ông Trần Ch và đại diện theo ủy quyền của ông Trần Ch là ông Trần Văn V trình bày: Ông Trần Ch có diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 316364 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 28/9/2017. Do có nhu cầu vay vốn để kinh doanh nên ông Trần Ch có đến công ty L để vay tiền. Ông Nguyễn Minh T là chủ tịch hội đồng công ty đồng ý cho ông Ch vay số tiền 900.000.000 đồng nên giữa ông Ch và công ty L có làm Hợp đồng cho mượn tiền không số, không ghi rõ ngày, tháng, năm 2018 với nội dung: Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ tài chính L do ông T làm đại diện, đồng ý cho ông Ch vay số tiền 900.000.000 đồng, thời hạn vay là 24 tháng, lãi suất là 1%/tháng. Đồng thời, ông Ch phải thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất nêu trên cho công ty nên ông Ch đã giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông T giữ hẹn vài ngày sau giao tiền. Ngày 14/5/2018, ông T yêu cầu ông Ch đến Văn phòng công chứng Trần Văn N để ký Hợp đồng và giao tiền cho ông. Tại Văn phòng công chứng, ông T và vợ là bà L có đưa cho ông Ch 02 bản Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cùng ngày 14/5/2018, trong đó một Hợp đồng ghi giá chuyển nhượng là 900.000.000 đồng và một Hợp đồng ghi giá chuyển nhượng là 4.500.000.000 đồng. Ông T, bà L và công chứng viên yêu cầu ông Ch ký cả hai bản Hợp đồng nói là một bản Hợp đồng ghi 900.000.000 đồng là để cho ông Ch vay số tiền là 900.000.000 đồng, hợp đồng còn lại sẽ làm Hợp đồng hủy bỏ và cùng lúc đó ông Ch cũng đã ký Hợp đồng hủy bỏ đối với Hợp đồng có giá là 4.500.000.000 đồng. Sau đó, từ tháng 5/2018 đến tháng 01/2019, vợ chồng ông T và bà L chỉ giao cho ông Ch tổng số tiền là 340.000.000 đồng. Ngày 27/3/2019, ông Ch và ông T có gặp nhau và xác nhận lại số tiền ông Ch nhận từ vợ chồng ông T và bà L là 340.000.000 đồng. Ông T làm “Tờ cam kết” khi nào Ngân hàng giải ngân thì sẽ giao đủ tiền còn lại cho ông Ch. Tuy nhiên, ông T không thực hiện đúng thỏa thuận nên ông Ch có đến gặp ông Lưu Văn D là phó trưởng phòng Ngân hàng N – Chi nhánh B để hỏi thì được biết là diện tích đất nêu trên của ông Ch đã được thế chấp tại Ngân hàng và đã giải ngân số tiền 2.000.000.000 đồng vào ngày 08/3/2019.
Vào tháng 7/2019, ông Ch có khởi kiện đến Toà án nhân dân thành phố Bạc Liêu, trong quá trình giải quyết giữa ông và vợ chồng T, L đã thoả thuận với nhau là trong thời gian 02 tháng, ông T, bà L phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ch và ông Ch sẽ trả cho ông T, bà L số tiền 340.000.000 đồng nhưng sau đó ông T, bà L không thực hiện đúng thoả thuận nên ông Ch đã khởi kiện lại yêu cầu đối với Nguyễn Minh T, Hồ Mỹ L về Hợp đồng chuyển nhượng đất đã ký kết. Nay Ngân hàng N khởi kiện đối với công ty L, ông là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng đối với diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S do ông đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời ông có yêu cầu độc lập như sau:
- Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất ở ngày 14/5/2018 giữa ông Trần Ch với ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L vô hiệu.
- Hủy đăng ký biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS02427 vào ngày 17/5/2018 cập nhật chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L.
- Yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp giữa Nguyễn Minh T, Hồ Mỹ L với Ngân hàng N đối với phần diện tích 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S vô hiệu.
- Yêu cầu giải quyết hậu quả của việc tuyên bố các hợp đồng trên vô hiệu.
- Nếu trong trường hợp phải giao tài sản phát mãi thì yêu cầu ông T và bà L phải hoàn trả lại giá trị tài sản của ông Ch trên đất (tài sản nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) theo chứng thư thẩm định giá là 1.970.221.809 đồng.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/02/2021, bà Diệp Thị Út H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án trình bày: Bà với ông Trần Ch có cùng sống với nhau trong căn nhà trên diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S, tuy nhiên giữa bà với ông Ch không phải là vợ chồng (không có đăng ký kết hôn). Toàn bộ tài sản nhà và đất là của ông Ch, không phải của bà nên bà không có ý kiến gì trong vụ án này.
Trong quá trình tố tụng, ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không trình bày ý kiến, tại phiên toà ngày 28/3/2023 đại diện theo uỷ quyền của ông T và bà L là ông Trần Quang M trình bày: Ông T và bà L không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Trần Ch, ông T và bà L xác định việc ông T và bà L nhận chuyển nhượng diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S là hợp pháp. Ông T và bà L không có ý kiến với chứng thư thẩm định giá của Công ty cổ phần tư vấn đầu tư và thẩm định giá Sao Việt. Đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần N thì ông T và bà L thừa nhận có ký kết các Hợp đồng thế chấp số 71/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 71/VCB.BLI.19 ký ngày 06/3/2019 giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần N – Chi nhánh B và ông Nguyễn Minh T cùng bà Hồ Mỹ L số 01/71/VCB.BLI.19 ngày 06/8/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L và Hợp đồng thế chấp số 72/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L nên ông T và bà L đồng ý trong trường hợp Công ty L không thanh toán được nợ cho Ngân hàng thì đồng ý giao tài sản để xử lý cho Ngân hàng thu hồi nợ, không có yêu cầu gì khác.
Tại văn bản số 20/VPĐK-HC ngày 09/01/2023, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh S là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có ý kiến: Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh S không tham gia tố tụng trong vụ án, không có ý kiến gì khác.
Tại Văn bản số 04/VBCC ngày 29/4/2020, Văn phòng công chứng Trần Văn N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có ý kiến: Về mặt thủ tục các giấy tờ chứng minh hộ khẩu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp pháp không có tranh chấp, không bị kê biên, không nằm trong quy hoạch do ông Trần Ch đứng tên được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng chứng nhận và thời điểm giao dịch các bên hoàn toàn tự nguyện giao kết hợp đồng, có năng lực hành vi dân sự phù hợp quy định pháp luật. Mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm pháp luật không trái đạo đức xã hội. Các bên ký kết hợp đồng đều có đọc lại và đồng ý ký tên trong hợp đồng nên không có lý do gì ông Trần Ch đề nghị Toà án huỷ bỏ hợp đồng (nếu hai bên không có thoả thuận khác), không có yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 19/8/2022 và biên bản làm việc ngày 28/02/2023, ông Ngô Hoàng L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án trình bày: Do ông L có nhu cầu vay tiền nhưng đang là nợ xấu bên ngân hàng nên được người khác giới thiệu, ông L đến công ty L để vay tiền, thì lúc này ông Nguyễn Minh T có nói với ông L là phải thế chấp tài sản thì mới được vay. Sau đó, ông T và ông L đến Văn phòng công chứng, ký Hợp đồng thế chấp số 502/VCB.BLI.18 ngày 25/12/2018 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Ngô Hoàng L. Lúc đó ông L cứ nghĩ là ký hợp đồng để ông T cho vay tiền chứ không biết là thế chấp cho Ngân hàng. Sau khi ký hợp đồng tại phòng công chứng thì khoảng 3 - 4 ngày sau ông T giao cho ông số tiền 700.000.000 đồng và sau đó 01 ngày giao tiếp 300.000.000 đồng, tổng là 1.000.000.000 đồng. Khi ông T giao tiền cho ông L thì ông L có ký vào các Bản hợp đồng Mượn tiền số 79/2018/HĐMT ngày 29/10/2018 và Hợp đồng cho mượn tiền số 70/2018/HĐMT-LYP ngày 29/12/2018 và Hợp đồng Bảo lãnh vay tiền (bằng bất động sản) ngày 27/12/2018. Ông L không nhớ là Ngân hàng có xuống thẩm định trước khi ký thế chấp hay không, nhưng ông chỉ nhớ là sau khi ký Hợp đồng thế chấp trên thì bên Ngân hàng có đến 02 lần để xem xét các tài sản thế chấp, ông nhớ là bên Công ty L dẫn xuống nói là để xem xét đổi Ngân hàng cho vay, lúc Ngân hàng xuống thẩm định thì ông L đều có thông báo cho các anh em trong gia đình biết. Các tài sản thế chấp gồm:
1/ Diện tích 2781,6m2 đất trồng cây lâu năm, số thửa 176, tờ bản đồ số 52 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 665907 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 08/8/2018 do ông Ngô Hoàng L đứng tên quyền sử dụng, đất tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
2/ Diện tích 410,0m2 đất trồng cây lâu năm, số thửa 182, tờ bản đồ số 52 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 602049 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 16/11/2018 do ông Ngô Hoàng L đứng tên quyền sử dụng, đất tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
3/ Diện tích 450,3m2 đất ở tại đô thị, số thửa 25, tờ bản đồ số 52 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 665909 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 08/8/2018 do ông Ngô Hoàng L đứng tên quyền sử dụng, đất tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
Các tài sản này là tài sản của cá nhân ông L được ông Ngô Minh Th và bà Trần Thị Th tặng cho riêng ông L. Các diện tích đất nêu trên có hiện trạng theo đúng các biên bản thẩm định của Toà. Nay đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thì ông L không đồng ý giao tài sản thế chấp để Ngân hàng xử lý thu hồi nợ. Nếu buộc phải giao tài sản để xử lý thì ông yêu cầu không phát mãi phần mồ mã và chừa lại lối đi để gia đình ông vào thăm mồ mã này. Không có yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 19/8/2022, bà Quách Thanh Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án trình bày: Bà là vợ ông L, đối với các tài sản thế chấp là của cá nhân ông L nên bà không có ý kiến gì trong vụ án này, bà thống nhất với ý kiến của ông L, không có yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 12/4/2022, cụ Ngô Minh Th và cụ Trần Thị Th là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án trình bày: Vào năm 2018, vợ chồng cụ có tặng cho lại cho con trai út là ông Ngô Hoàng L các diện tích đất nêu trên, ông L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó có nghe nói Lâm có vay tiền của Công ty L do ông Nguyễn Minh T làm giám đốc. Sau khi chuyển tên cho Lâm thì vài tháng sau có nghe Ngân hàng xuống xem đất nhưng không có làm việc với vợ chồng cụ. Hai cụ xác định diện tích đất này hai cụ tặng cho lại cho Lâm là để lại cho con cháu ở chứ không được sang bán nên hai cụ không đồng ý với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng, hiện trạng trên đất có rất nhiều tài sản của những người con khác và nhiều ngôi mộ của gia đình và chôn từ thiện. Không có yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/3/2023, Ông Phan Thành C và anh Phan Ngọc L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án trình bày:Do hiện tại toàn bộ diện tích đất thế chấp là tài sản của cụ Th và cụ T đã cho lại ông L, gia đình ông C và bà O chỉ ở nhờ trên đất nên không có ý kiến gì đối với yêu cầu của Ngân hàng. Trên phần đất thế chấp có 02 căn nhà của gia đình ông có kết cấu như biên bản thẩm định của Toà. Hiện trạng các tài sản này chỉ có ông C, vợ là bà O và con trai là Phan Ngọc L ở tại đây. Đối với Phan Ngọc Ph và Phan Kim D hiện đã sống ở địa chỉ khác, không còn hộ khẩu và ở trên đất thế chấp. Đối với các tài sản của gia đình ông thì nếu trong trường hợp phải giao tài sản phát mãi cho Ngân hàng thì ông C và anh L không có ý kiến, đề nghị giải quyết theo pháp luật, không yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/4/2023, ông Lộ Tấn X là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Ông không đồng ý việc Ngân hàng Thương mại Cổ phần N khởi kiện phát mãi tài sản có liên quan đến tài sản của ông là cấu trúc căn nhà tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B gắn liền với đất hiện do ông Ngô Hoàng L đứng tên quyền sử dụng. Vì khi Ngân hàng khảo sát cho vay không có sự đồng ý của ông và Ngân hàng cũng không thông báo cho ông biết về việc thế chấp có liên quan đến tài sản của ông nằm trên đất. Hiện trạng tài sản ông cho vợ chồng anh Lai Ngọc Hoài An và chị Phạm Thị Kiều T thuê ở và bán hủ tiếu, thuê theo năm, Trang và An đã thuê được khoảng 02, 03 năm trước cho đến nay. Nhà là tài sản của cá nhân ông, ông xác định ông không đồng ý với yêu cầu của Ngân hàng, không có ý kiến gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 12/4/2023, bà Phạm Thị Kiều T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Bà và chồng là ông Lại Ngọc Hoài A có thuê nhà của ông Lộ Tấn X để ở và bán hủ tiếu, hình thức thuê là theo năm, giá thuê mỗi tháng là 3.500.000 đồng. Nếu trong trường hợp nhà và đất này phải phát mãi thì vợ chồng bà đồng ý dọn đi nơi khác để trả nhà và đất lại cho ông X để giải quyết theo pháp luật, không có yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 21/11/2022, bà Trần Bạch T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Vào năm 2021, bà có nhận chuyển nhượng diện tích đất với chiều ngang 4m với chiều dài từ phần đất giáp ranh nhà bà đến hết lộ bê tông từ ông Ngô Hoàng L (theo bản vẽ là phần đất thứ 1 có diện tích 31,2m2) với giá là 35.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng bà được ông L cho biết đất đang thế chấp tại Ngân hàng nhưng bà vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng. Bà đã trán bê tông và sử dụng phần đất này từ năm 2021 đến nay. Nay trong vụ án này, bà không đồng ý phát mãi diện tích đất này, đối với việc chuyển nhượng giữa bà với ông L bà không có yêu cầu trong vụ án này, nếu có tranh chấp bà sẽ khởi kiện riêng, không có yêu cầu gì khác.
Từ nội dung nêu trên, tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
1/ Đình chỉ một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Ch đối với ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L về việc nếu trong trường hợp phải giao tài sản phát mãi thì yêu cầu ông T và bà L phải hoàn trả lại giá trị tài sản của ông Ch trên đất (tài sản nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) theo chứng thư thẩm định giá là 1.970.221.809 đồng.
2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần N đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L.
3/ Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần N tổng số tiền còn nợ theo Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020, giấy nhận nợ số 10 ngày 06/11/2020 và giấy nhận nợ số 11 ngày 31/12/2020 là 13.308.873.712 đồng, trong đó vốn gốc là 10.370.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.047.673.754 đồng, lãi quá hạn là 891.199.958 đồng.
4/ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L phải tiếp tục trả khoản tiền lãi, chi phí phát sinh theo nội dung thỏa thuận trong Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020, giấy nhận nợ số 10 ngày 06/11/2020 và giấy nhận nợ số 11 ngày 31/12/2020 từ ngày 19/5/2023 cho đến khi trả hết nợ.
5/ Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Ch đối với ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất ở ngày 14/5/2018 giữa ông Trần Ch với ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L vô hiệu.
6/ Không chấp nhận yêu cầu hủy đăng ký biến động của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS02427 vào ngày 17/5/2018 cập nhật chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L.
7/ Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 72/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 được ký kết giữa ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L với Ngân hàng Thương mại Cổ phần N đối với phần diện tích 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S vô hiệu.
8/ Trong trường hợp Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L không thanh toán được nợ hoặc trả không đủ số nợ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần N có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo các tài sản thế chấp thể hiện tại Hợp đồng đồng thế chấp số Hợp đồng thế chấp số 502/VCB.BLI.18 ngày 25/12/2018 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Ngô Hoàng L; Hợp đồng thế chấp số 71/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 71/VCB.BLI.19 ký ngày 06/3/2019 giữa Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh B và ông Nguyễn Minh T cùng bà Hồ Mỹ L số 01/71/VCB.BLI.19 ngày 06/8/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L; Hợp đồng thế chấp số 72/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L.
Trong trường hợp cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản do cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X sở hữu thì cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải trả giá trị các tài sản gắn liền trên đất.
Trường hợp cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X không có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản do cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X sở hữu thì buộc cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X và những người đang quản lý, sử dụng thửa đất phải di dời, giao lại các tài sản khi cơ quan thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thi hành án. Cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X có quyền yêu cầu giải quyết đòi lại giá trị các tài sản của mình trên đất thế chấp trong một vụ án khác.
Phần diện tích đất khu mộ có 19 ngôi mộ xây gạch, có ốp gạch bên ngoài, 03 ngô mộ xây gạch sơn nước bên ngoài, 02 ngôi tháp đựng hài cốt và một số ngôi mộ do gia đình ông Thống cho chôn từ thiện không xác định được số lượng và thân nhân tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B không thuộc phạm vi xử lý tài sản thế chấp, diện tích và vị trí từng khu mộ như sau:
+ Khu mộ thứ nhất diện tích 363,1m2 thuộc thửa đất số 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiện phần 2);
+ Khu mộ thứ hai diện tích 78,7m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 3);
+ Khu mộ thứ ba diện tích 278,3m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 4);
+ Khu mộ thứ tư diện tích 58,3m2 thuộc thửa 176 và 13.0m2 thuộc thửa số 25 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 5);
+ Khu mộ thứ năm diện tích 23,5m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 6);
+ Phần đường đi diện tích 14,6 m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 18);
+ Phần đường đi diện tích 44,1 m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ thể hiện là một phần của phần 19);
+ Phần đường đi diện tích 12,3m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ thể hiện là một phần của phần 19);
(Được thể hiện trong Mặt bằng hiện trạng khu đất lập ngày 08/12/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Giá Rai được gửi kèm theo) - Diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 316364 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 28/9/2017 do ông Trần Ch đứng tên quyền sử dụng (được cập nhật biến động chuyển nhượng cho bà Hồ Mỹ L và ông Nguyễn Minh T vào ngày 17/5/2018), đất tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S. Có các tài sản gắn liền với đất hiện do ông Trần Ch và bà Diệp Thị Út H quản lý, sử dụng gồm:
+ Nhà chính diện tích (13,5x 6,2m) + (1,5m x 3,4m) = 88,8m2, có cấu trúc 01 tầng trệt 01 tầng lầu, nền lát gạch men, vách tường, trần thạch cao, mái lợp tol, khung cột bê tông cốt thép, sàn bê tông cốt thép có diện tích sàn là (7,6m x 13,5) = 102,6m2.
+ Nhà sau diện tích 6,3m x 7,5m = 47,25 m2, có cấu trúc nền lát gạch men, vách tường mái đổ bê tông cốt thép, khung cột bê tông, cốt thép.
+ Nhà bên cạnh nhà chính diện tích 19,6m x 13,1m = 256,76m2, có cấu trúc nền gạch men + xi măng, vách tường, mái tol, khung cột bê tông cốt thép.
+ Nhà ăn diện tích 3,4m x 19,6m = 66,64m2, kết cấu nền xi măng, vách tường, cột bê tông cốt thép, không có mái.
+ Nhà nghỉ diện tích 6,8m x 13,3m = 90,44m2, Kết cấu nền lát gạch men, vách tường, mái lơp tol + cột bê tông, cốt thép.
+ Mái che (cạnh nhà nghỉ) diện tích: 3,3m x 13,3m = 43,89m2, Kết cấu: Mái tol dỡ mái gỗ, cột đúc sẵn.
+ Hồ nước diện tích 2,4m x 7,5m = 18m2, Kết cấu nền gạch men, vách tường, cột bê tông cốt thép.
+ Quán nước 1 diện tích 5,7m x 14,8m = 84,36m2, Kết cấu nền gạch men, vách tường, trần thạch cao, mái tol cột bê tông cốt thép.
+ Quán nước 2 diện tích 6m x 17m = 102m2, Kết cấu nền gạch tàu, vách một bên tường, một bên không vách mái lá, cột bê tông cốt thép + thép hộp.
+ Mái che cặp quán nước diện tích 3,3m x 17,6m = 58,08m2, Kết cấu cột thép đỡ mái thép hộp, lợp bạc trên mái.
+ Hàng rào, kết cấu tường 10, cột bê tông cốt thép, cao 02m, dài 64,6m + 3,84m +35,64m + 11,5m + 10,00m + 32,5m = 158,08m. Diện tích 158,08m x 02 m = 316,16m2.
+ Sân xi măng diện tích (24,8m x 19m ) + (14,7m x 7,1m) = 575,57m2.
+ Sân lát gạch men diện tích 07m x 06m = 42m2.
+ Cây trồng gồm 05 cây xanh loại A, 01 cây cóc loại A, 02 cây cau loại A; 50 cây chuối loại A; 30 cây chuối loại B + 20 cây chuối.
Trong trường hợp ông Trần Ch có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản gồm nhà sau, nhà bên cạnh nhà chính, nhà ăn, nhà nghỉ, mái che (cạnh nhà nghỉ), hồ nước, quán nước, sân xi măng, sân lát gạch men và các cây trồng do ông Trần Ch sở hữu thì ông Trần Ch được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải trả giá trị các tài sản gắn liền trên đất.
Trường hợp ông Trần Ch không có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản do ông Trần Ch sở hữu thì buộc ông Trần Ch và bà Diệp Thị Út H di dời, giao lại các tài sản khi cơ quan thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thi hành án. Ông Trần Ch có quyền yêu cầu đòi lại giá trị các tài sản của mình trên đất thế chấp trong một vụ án khác.
9/ Buộc ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông Trần Ch giá trị quyền sử dụng đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S là 4.520.705.100 đồng và giá trị căn nhà chính là 966.723.120 đồng, tổng cộng là 5.487.428.220 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, lãi phát sinh giai đoạn thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 01 tháng 6 năm 2023, ông Trần Ch kháng cáo yêu cầu chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của ông Trần Ch; không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng N về việc phát mãi tài sản của ông Trần Ch để thu hồi nợ của công ty L.
Ngày 21 tháng 6 năm 2023, công ty L và ông Nguyễn Minh T, bà Hồ Mỹ L kháng cáo cùng nội dung yêu cầu huỷ bản án sơ thẩm, giao cấp sơ thẩm xác minh, làm rõ đầy đủ các tình tiết chứng cứ và xét xử lại vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của ông Trần Ch là ông Trần Văn V thay đổi yêu cầu kháng cáo và trình bày cùng ý kiến tranh luận: Không kháng cáo và thống nhất đối với quyết định của cấp sơ thẩm về việc tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Ch và ông Nguyễn Minh T, bà Hồ Mỹ L vô hiệu, các yêu cầu còn lại thì giữ nguyên. Đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông Trần Ch, sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm theo hướng chấp nhận các yêu cầu của ông Trần Ch.
Đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng N trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Ch, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Công ty L là bị đơn, ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Công ty L, ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến tranh luận của các đương sự và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét đơn kháng cáo của công ty L, ông Trần Ch, ông Nguyễn Minh T, bà Hồ Mỹ L nộp trong hạn luật định và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định. Căn cứ vào Điều 273 và Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự, được chấp nhận xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của công ty L, ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan, không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của công ty L, ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L.
[3] Xét kháng cáo của ông Trần Ch yêu cầu cấp phúc thẩm hủy đăng ký biến động quyền sử dụng đất từ tên ông Trần Ch sang tên ông Nguyễn Minh T, bà Hồ Mỹ L; hủy Hợp đồng thế chấp số 72 ngày 06/3/2019 giữa Ngân hàng N và công ty L; yêu cầu cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng N về việc phát mãi tài sản của ông Trần Ch để thu hồi nợ của công ty L, nhận thấy:
[3.1] Theo tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp thể hiện tại hồ sơ: Xét Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020, được nguyên đơn và bị đơn thừa nhận việc ký kết hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp. Đây là tình tiết, sự kêiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Xét nội dung và hình thức của Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020 là phù hợp với quy định pháp luật nên các hợp đồng có hiệu lực.
[3.2] Xét về việc thực hiện Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020: Bị đơn thừa nhận đã nhận đủ số tiền vay là 10.370.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng nguyên đơn trình bày do bị đơn không thanh toán theo nội dung đã thoả thuận của hợp đồng, khoản vay đã quá thời hạn thanh toán và chuyển nợ quá hạn. Căn cứ khoản 8.4 Điều 8 của Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 quy định việc bên vay có nghĩa vụ trả đầy đủ, đúng hạn nợ gốc và lãi bên cho vay. Vì vậy, cấp sơ thẩm xác định bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tổng số tiền còn nợ là 13.308.873.712 đồng (trong đó, vốn gốc là 10.370.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.047.673.754 đồng, lãi quá hạn là 891.199.958 đồng) là có cơ sở nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3.3] Căn cứ Hợp đồng thế chấp số 72/VCB.BLI.19 ngày 06/3/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L đối với diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 316364 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 28/9/2017 do ông Trần Ch đứng tên quyền sử dụng (được cập nhật biến động chuyển nhượng cho bà Hồ Mỹ L và ông Nguyễn Minh T vào ngày 17/5/2018), đất tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S, thấy rằng: Cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Ch và ông T, bà L vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu là đúng với quy định của pháp luật, các bên có kháng cáo nhưng đã có thay đổi hoặc từ bỏ việc kháng cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Ch và ông T, bà L. Tuy nhiên, xét Hợp đồng thế chấp số 72/VCB.BLI.19 ngày 06/3/2019 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L đối với diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S do ông Trần Ch đứng tên thì tại thời điểm ông Ch ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T, bà L thì ông Ch cũng biết trước sự việc ông T sẽ đem tài sản này để thế chấp vay vốn tại Ngân hàng nhưng ông Ch vẫn đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T, bà L và tài sản là bất động sản đã được đăng ký cập nhật chuyển nhượng qua cho ông T, bà L ngày 17/5/2018 và đến ngày 06/3/2019 ông T, bà L ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và nhà ở số 72/VCB.BLI.19 với Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam để đảm bảo cho khoản vay của Công ty L tại Ngân hàng thì ông Ch biết nhưng vẫn đồng ý và hợp đồng thế chấp đã được công chứng đúng quy định, tài sản thế chấp là bất động sản được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Mỹ Xuyên đúng quy định. Về hình thức và nội dung của Hợp đồng thế chấp này đã được thực hiện đúng quy định pháp luật, cấp sơ thẩm xác định Ngân hàng là người thứ ba ngay tình và căn cứ khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 công nhận Hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là diện tích 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S và các tài sản gắn liền trên đất của Ngân hàng N từ Hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật và giải quyết cho Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là diện tích 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S để ngân hàng N thu hồi nợ là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật, do đó yêu cầu kháng cáo của ông Trần Ch là không có căn cứ.
[4] Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của công ty L, ông Nguyễn Minh T, bà Hồ Mỹ L; không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Trần Ch; có căn cứ chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu không bị kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị [6] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: công ty L, ông Nguyễn Minh T, bà Hồ Mỹ L phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 296; khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L, ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L; Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Ch. Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
- Căn cứ khoản 1 Điều 5, điểm a khoản 1 Điều 73; khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 218; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Căn cứ khoản 1 Điều 124; Điều 131; khoản 2 Điều 133; Điều 299, Điều 317, Điều 320, Điều 323 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 91; Điều 95; điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng;
- Căn cứ Điều 167 Luật Đất đai năm 2013;
- Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016; Án lệ số 11/2017/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017;
- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Đình chỉ một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Ch đối với ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L về việc nếu trong trường hợp phải giao tài sản phát mãi thì yêu cầu Tân và L phải hoàn trả lại giá trị tài sản của ông Ch trên đất (tài sản nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) theo chứng thư thẩm định giá là 1.970.221.809 đồng.
2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần N đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L.
3/ Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần N tổng số tiền còn nợ theo Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020, giấy nhận nợ số 10 ngày 06/11/2020 và giấy nhận nợ số 11 ngày 31/12/2020 là 13.308.873.712 (Mười ba tỷ ba trăm lẻ tám triệu tám trăm bảy mươi ba ngàn bảy trăm mười hai) đồng. Trong đó, vốn gốc là 10.370.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.047.673.754 đồng, lãi quá hạn là 891.199.958 đồng.
4/ Kể từ ngày 19/5/2022 cho đến khi thanh toán hết khoản tiền gốc và lãi trên, bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký, chi phí phát sinh theo nội dung thỏa thuận trong Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 177/VCB.BLI.20 ngày 10/02/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/177/VCB.BLI.20 ngày 28/9/2020, giấy nhận nợ số 10 ngày 06/11/2020 và giấy nhận nợ số 11 ngày 31/12/2020 từ ngày 19/5/2023 cho đến khi trả hết số tiền nợ.
5/ Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Ch đối với ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất ở ngày 14/5/2018 giữa ông Trần Ch với ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L vô hiệu.
6/ Không chấp nhận yêu cầu hủy đăng ký biến động của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS02427 vào ngày 17/5/2018 cập nhật chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L.
7/ Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 72/VCB.BLI.19 ngày 06/03/2019 được ký kết giữa ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L với Ngân hàng Thương mại Cổ phần N đối với phần diện tích 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S vô hiệu.
8/ Trong trường hợp Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L không thanh toán được nợ hoặc trả không đủ số nợ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần N có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
+ Các tài sản thế chấp gồm các quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất sau:
- Diện tích đất 597,6m2 trong đó Đất ở tại nông thôn 300m2 và đất trồng cây lâu năm khác 297,6m2, số thửa 13, tờ bản đồ số 33 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 538610 do Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 13/12/2011 do bà Hồ Thị Tiên đứng tên quyền sử dụng (được cập nhật biến động chuyển nhượng cho bà Hồ Mỹ L và ông Nguyễn Minh T vào ngày 08/5/2018), đất tại ấp Rạch Sên, xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Hiện trạng là đất trống hiện do ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L quản lý.
- Diện tích 2.781,6m2 đất trồng cây lâu năm, số thửa 176, tờ bản đồ số 52 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 665907 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 08/8/2018 do ông Ngô Hoàng L đứng tên quyền sử dụng, đất tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
- Diện tích 410,0m2 đất trồng cây lâu năm, số thửa 182, tờ bản đồ số 52 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 602049 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 16/11/2018 do ông Ngô Hoàng L đứng tên quyền sử dụng, đất tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
- Diện tích 450,3m2 đất ở tại đô thị, số thửa 25, tờ bản đồ số 52 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 665909 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 08/8/2018 do ông Ngô Hoàng L đứng tên quyền sử dụng, đất tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B.
Các tài sản gắn liền với các diện tích đất trên gồm:
+ Căn nhà thứ nhất có cấu trúc: Móng, khung cột bê tông cốt thép, vách xây tường sơn nước, nền lót gạch men, mái lợp tol sóng vuông, diện tích: 88,9m2 thuộc thửa số 25, nhà của ông Ngô Minh Th và bà Trần Thị Th, hiện do ông Thống, bà Thơi, vợ chồng ông L, bà Đ, em Ngô Quách T và em Ngô Thuận Phát ở tại đây.
+ Căn nhà thứ hai có cấu trúc: Móng, khung cột bê tông cốt thép, vách xây tường, sơn nước, nền lót gạch men, mái lợp tol sóng vuông, Diện tích: 60,7m2 thuộc thửa số 25, nhà của vợ chồng bà Ngô Hoàng N và ông L Hoàng P, hiện do vợ chồng ông Ph, bà Nh, anh Lâm Bạch L, chị Nguyễn Ngọc Như và chị Lâm Ngọc Nh ở tại đây.
+ Căn nhà thứ ba có cấu trúc: Móng, khung cột bê tông cốt thép, vách xây tường sơn nước, nền lót gạch men,mái lợp tol sống vuông, diện tích: 45,9m2 thuộc thửa số 176, của vợ chồng bà Ngô Hoàng O và ông Phan Thành C, hiện do bà O, ông C và anh L ở tại đây.
+ Căn nhà thứ tư có cấu trúc: Móng, khung cột bê tông cốt thép, vách xây tường sơn nước, nền lót gạch men ,mái lợp tol xi măng, nền láng xi măng, diện tích:
59,2m2 thuộc thửa số 182, của bà Ngô Hoàng O và ông Phan Thành C, hiện do bà O, ông C và anh Phan Ngọc L ở tại đây.
+ Căn nhà thứ năm có cấu trúc: Móng, khung cột bê tông cốt thép, vách xây tường sơn nước, nền lót gạch men, lầu bê tông cốt thép, mái lợp tol sóng vuông, nền lót gạch men, diện tích: 52,6m2 thuộc thửa số 182 của ông Lộ Tấn X (theo biên bản thẩm định thể hiện là nhà của bà Ngô Hoàng Y), hiện ông X cho vợ chồng bà Phạm Thị Kiều T và ông Lai Ngọc Hoài An thuê sử dụng.
+ Quán cà phê có kết cấu: Đà sàn bê tông cốt thép, kết hợp lót ván gỗ, kết cấu phần mái: khung cây gỗ dầu, mái lợp tol sóng vuông, vách thiếc, diện tích: 122,3m2 thuộc thửa số 182 của vợ chồng bà Ngô Hoàng N và ông L Hoàng P (theo bản vẽ thể hiện là nhà Nhu).
+ Quán cà phê có cấu trúc: Đà sàn bê tông cốt thép, kết hợp lót ván gỗ, kết cấu phần mái: khung cây gỗ dầu, mái lợp tol sóng vuông, vách thiếc, diện tích: 198,6m2 thuộc thửa 176 và 147,7m2 thuộc thửa 182 của ông Ngô Minh Th xây dựng hiện do vợ chồng bà Nh, ông Ph sử dụng bán cà phê (theo bản vẽ thể hiện nhà Nhu).
+ Sân bê tông có diện tích 31,2m2 thuộc thửa 176 (bản vẽ ký hiệu phần 1) hiện do bà Trần Bạch T sử dụng.
Trong trường hợp cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản do cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X sở hữu thì cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải trả giá trị các tài sản gắn liền trên đất.
Trường hợp cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X không có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản do cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X sở hữu thì buộc cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X và những người đang quản lý, sử dụng thửa đất phải di dời, giao lại các tài sản khi cơ quan thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thi hành án. Cụ Ngô Minh Th, cụ Trần Thị Th, bà Ngô Hoàng N, ông L Hoàng P, ông Phan Thành C, bà Ngô Hoàng O và ông Lộ Tấn X có quyền yêu cầu giải quyết đòi lại giá trị các tài sản của mình trên đất thế chấp trong một vụ án khác.
Phần diện tích đất khu mộ có 19 ngôi mộ xây gạch, có ốp gạch bên ngoài, 03 ngôi mộ xây gạch sơn nước bên ngoài, 02 ngôi tháp đựng hài cốt và một số ngôi mộ do gia đình ông Thống cho chôn từ thiện không xác định được số lượng và thân nhân tại Khóm 2, phường L, thị xã G, tỉnh B không thuộc phạm vi xử lý tài sản thế chấp, diện tích và vị trí từng khu mộ như sau:
+ Khu mộ thứ nhất diện tích 363,1m2 thuộc thửa đất số 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiện phần 2)
- Hướng bắc giáp đường bê tông: 39,18m;
- Hướng nam giáp thửa số 176, thửa số 190 và thửa số 196: 14,66m + 1m + 6m + 4,01m;
- Hướng đông giáp thửa 16 : 3,9m + 5,43m;
- Hướng tây giáp thửa 172: 7,48m;
+ Khu mộ thứ hai diện tích 78,7m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 3):
- Hướng bắc giáp thửa số 176: 3,62m + 1m + 3,62m;
- Hướng nam giáp khu mộ thứ 3 và thửa số 176: 2,27m + 0,74m + 6,91m;
- Hướng đông giáp thửa 176 : 9,12m;
- Hướng tây giáp thửa 176: 8,34m;
+ Khu mộ thứ ba diện tích 278,3m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 4):
- Hướng bắc giáp khu mộ số 2 và thửa số 176: 2,27m + 3,65m;
- Hướng nam giáp nhà bà O và thửa số 16: 5,19m + 0,86m;
- Hướng đông giáp thửa 16 : 1,93m + 46,53m;
- Hướng tây giáp thửa 176: 32,14m;
+ Khu mộ thứ tư diện tích 58,3m2 thuộc thửa 176 và 13.0m2 thuộc thửa số 25 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 5) - Hướng bắc giáp thửa số 176: 7,6m;
- Hướng nam giáp thửa số 176 và thửa số 25: 6,88m + 1,04m;
- Hướng đông giáp thửa 176 và thửa số 25: 0,38m +1m +7,43m;
- Hướng tây giáp thửa 176: 9,6m;
+ Khu mộ thứ năm diện tích 23,5m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 6):
- Hướng bắc giáp thửa số 176: 5,15m + 0,7m;
- Hướng nam giáp thửa số 176: 5,72m;
- Hướng đông giáp thửa 16: 4,05m;
- Hướng tây giáp thửa 25: 4,16m;
+ Phần đường đi diện tích 14,6 m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ ký hiệu phần 18):
- Hướng bắc giáp khu mộ số 1: 01m;
- Hướng nam khu mộ số 2: 01m;
- Hướng đông và tây giáp thửa 176 có số đo mỗi cạnh là 14,6m + Phần đường đi diện tích 44,1 m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ thể hiện là một phần của phần 19):
- Hướng bắc giáp khu mộ số 2: 0,74m;
- Hướng nam khu mộ số 5: 0,74m;
- Hướng đông giáp khu mộ số 3: 46,47m + nhà bà O: 8,97m + thửa số 176: 2,32m;
- Hướng tây giáp thửa 176, phần đường đi còn lại thuộc phần 19 và thửa 25:
32,14m + 1m + 24,81m;
+ Phần đường đi diện tích 12,3m2 thuộc thửa 176 tờ bản đồ số 52 (bản vẽ thể hiện là một phần của phần 19):
- Hướng Bắc giáp thửa 176: 12,11m - Hướng Nam giáp thửa số 25: 12,42m;
- Hướng Đông giáp phần đường đi trên: 1m;
- Hướng Tây giáp khu mộ số 4: 1m;
(Được thể hiện trong Mặt bằng hiện trạng khu đất lập ngày 08/12/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Giá Rai được gửi kèm theo) - Diện tích đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 316364 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 28/9/2017 do ông Trần Ch đứng tên quyền sử dụng (được cập nhật biến động chuyển nhượng cho bà Hồ Mỹ L và ông Nguyễn Minh T vào ngày 17/5/2018), đất tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S. Có các tài sản gắn liền với đất hiện do ông Trần Ch và bà Diệp Thị Út H quản lý, sử dụng gồm:
+ Nhà chính diện tích (13,5x 6,2m) + (1,5m x 3,4m) = 88,8m2, có cấu trúc 01 tầng trệt 01 tầng lầu, nền lát gạch men, vách tường, trần thạch cao, mái lợp tol, khung cột bê tông cốt thép, sàn bê tông cốt thép có diện tích sàn là 7,6m x 13,5 = 102,6m2.
+ Nhà sau diện tích 6,3m x 7,5m = 47,25 m2, có cấu trúc nền lát gạch men, vách tường mái đổ bê tông cốt thép, khung cột bê tông, cốt thép.
+ Nhà bên cạnh nhà chính diện tích 19,6m x 13,1m = 256,76m2, có cấu trúc nền gạch men + xi măng, vách tường, mái tol, khung cột bê tông cốt thép.
+ Nhà ăn diện tích 3,4m x 19,6m = 66,64m2, kết cấu nền xi măng, vách tường, cột bê tông cốt thép, không có mái.
+ Nhà nghỉ diện tích 6,8m x 13,3m = 90,44m2, Kết cấu nền lát gạch men, vách tường, mái lợp tol + cột bê tông, cốt thép.
+ Mái che (cạnh nhà nghỉ) diện tích: 3,3m x 13,3m = 43,89m2, kết cấu: Mái lợp tol, đỡ mái gỗ, cột đúc sẵn.
+ Hồ nước diện tích 2,4m x 7,5m = 18m2, kết cấu nền gạch men, vách tường, cột bê tông cốt thép.
+ Quán nước 1 diện tích 5,7m x 14,8m = 84,36m2, kết cấu nền gạch men, vách tường, trần thạch cao, mái tol cột bê tông cốt thép.
+ Quán nước 2 diện tích 6m x 17m = 102m2, kết cấu nền gạch tàu, vách một bên tường, một bên không vách mái lá, cột bê tông cốt thép + thép hộp.
+ Mái che cặp quán nước diện tích 3,3m x 17,6m = 58,08m2, kết cấu cột thép đỡ mái thép hộp, lợp bạc trên mái.
+ Hàng rào, kết cấu tường 10, cột bê tông cốt thép, cao 02m, dài 64,6m + 3,84m +35,64m + 11,5m + 10,00m + 32,5m = 158,08m. Diện tích 158,08m x 02m = 316,16m2.
+ Sân xi măng diện tích (24,8m x 19m ) + (14,7m x 7,1m) = 575,57m2 + Sân lát gạch men diện tích 07m x 06m = 42m2.
+ Cây trồng gồm 05 cây xanh loại A, 01 cây cóc loại A, 02 cây cau loại A; 50 cây chuối loại A; 30 cây chuối loại B + 20 cây chuối.
Trong trường hợp ông Trần Ch có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản gồm nhà sau, nhà bên cạnh nhà chính, nhà ăn, nhà nghỉ, mái che (cạnh nhà nghỉ), hồ nước, quán nước, sân xi măng, sân lát gạch men và các cây trồng do ông Trần Ch sở hữu thì ông Trần Ch được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải trả giá trị các tài sản gắn liền trên đất.
Trường hợp ông Trần Ch không có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản do ông Trần Ch sở hữu thì buộc ông Trần Ch và bà Diệp Thị Út H di dời, giao lại các tài sản khi cơ quan thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thi hành án. Ông Trần Ch có quyền yêu cầu đòi lại giá trị các tài sản của mình trên đất thế chấp trong một vụ án khác.
9/ Buộc ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông Trần Ch giá trị quyền sử dụng đất 2.587,1m2 thuộc thửa đất số 1042, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp N, xã Th, huyện M, tỉnh S là 4.520.705.100 đồng và giá trị căn nhà chính là 966.723.120 đồng, tổng cộng là 5.487.428.220 (năm tỷ bốn trăm tám mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi tám ngàn hai trăm hai mươi) đồng.
10/ Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ:
10.1/ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L có trách nhiệm hoàn cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần N số tiền 7.335.000 (bảy triệu ba trăm ba mươi lăm ngàn) đồng.
10.2/ Ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L có trách nhiệm hoàn trả cho ông Trần Ch số tiền 764.000 (bảy trăm sáu mươi bốn ngàn) đồng.
11/ Về chi phí thẩm định giá tài sản: Ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L có trách nhiệm hoàn trả cho ông Trần Ch số tiền 11.880.000 (mười một triệu tám trăm tám mươi ngàn) đồng.
12/ Về án phí:
12.1/ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ L phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch là 121.308.874 (một trăm hai mươi mốt triệu ba trăm lẻ tám ngàn tám trăm bảy mươi bốn) đồng.
12.2/ Ông Nguyễn Minh T và bà Hồ Mỹ L phải chịu án phí dân sự là 113.787.428 (một trăm mười ba triệu bảy trăm tám mươi bảy ngàn bốn trăm hai mươi tám) đồng.
12.3/Ngân hàng Thương mại Cổ phần N không phải chịu án phí. Ngân hàng Thương mại Cổ phần N đã nộp 59.422.000 (năm mươi chín triệu bốn trăm hai mươi hai ngàn) đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0007257 ngày 13/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu được hoàn lại toàn bộ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền trên, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp số 10/2023/KDTM-PT
Số hiệu: | 10/2023/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 26/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về