TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 79/2024/DS-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 01 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 270/2023/TLST-DS ngày 26 tháng 6 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất - hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2024/QĐXXST-DS ngày 01/02/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị S, sinh năm 1951. Địa chỉ: số A, khu dân cư H, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. SĐT: 0347.626.051. Có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà S: Luật sư Huỳnh Hồng D - Văn phòng luật sư Huỳnh Hồng D - thuộc đoàn luật sư tỉnh A. Địa chỉ: số D, đường T, thành phố L, tỉnh An Giang. Có mặt
- Bị đơn: Ông Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1989. Có mặt Nơi thường trú: số A, khu dân cư H, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.
Nơi ở hiện nay: số H, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp. SĐT: 0835.926.0xx.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Xuân H, sinh năm 1980. Địa chỉ: số A, khu dân cư H, phường M, Tp ., tỉnh An Giang. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn bà Lê Thị S trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:
Năm 2008, nhà nước có chủ trương giải tỏa mặt bằng để làm chợ C và gia đình vợ chồng bà được bồi hoàn và mua 01 nền đất thổ cư diện tích đất 67,5m2 tọa lạc tại phường M và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 354572, số vào sổ H.02909iA do UBND thành phố L cấp ngày 18/7/2008 cho Nguyễn Văn Đ, Lê Thị S. Ông bà cất nhà sinh sống ổn định. Sau khi ông Đ chết thì bà và ông Tuấn A, bà H là hàng thừa kế thứ nhất thống nhất thỏa thuận phân chia di sản thừa kế giao 50% quyền sử dụng đất của ông Đ cho bà S được toàn quyền định đoạt, theo văn bản có công chứng ngày 25/4/2016.
Lúc này, ông Tuấn A kêu để ông đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm mục đích ông vay vốn ngân hàng làm ăn và ông cam kết sẽ chăm sóc nuôi dưỡng bà. Do ông Tuấn A là con trai duy nhất và tin tưởng con trai nên bà có ký hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2016 cho ông Tuấn A. Sau đó, Tuấn A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 166930, số vào sổ CS06963 do Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 27/5/2016 cho Nguyễn Tuấn A.
Tuy nhiên, sau khi lấy vợ ông Tuấn A thường xuyên sinh sống bên vợ ở L, Đồng Tháp không chăm sóc phụng dưỡng bà. Nhà đất này hiện là nơi sinh sống duy nhất của bà S. Việc bà cho tặng ông Tuấn A là để ông Tuấn A làm ăn, có điều kiện chăm sóc phụng dưỡng bà nhưng nay ông Tuấn A không chăm sóc phụng dưỡng bà là vi phạm cam kết điều kiện của việc tặng cho quyền sử dụng đất. Đồng thời, theo hợp đồng tặng cho là tặng cho riêng quyền sử dụng đất, bà không có tặng cho quyền sở hữu nhà ở.
Đối với phần nền nhà mà Tuấn A trình bày đã bán để trả nợ do H cờ bạc thì bà trình bày như sau: nền nhà đó là vợ chồng bà được mua bổ sung theo quyết định số 202/QĐ.UBND ngày 16/6/2008, khi mua nền nhà này, bà đã vay tiền bên ngoài, nên sau khi bán nền nhà thì bà dùng để trả nợ, khám chữa bệnh, sửa chữa nhà ở, chi phí sinh hoạt, thuốc men...không có việc bà H cờ bạc, không có việc bà bán nền nhà để trả nợ cho bà H như Tuấn A trình bày.
Nay bà có phương án như sau: bà Sẽ hoàn lại cho Tuấn A giá trị đất theo biên bản định giá ngày 04/01/2024 với giá 121.500.000đ (một trăm hai mươi mốt triệu, năm trăm ngàn đồng) và Tuấn A sẽ sang lại tên quyền sử dụng đất cho bà. Hiện nhà chỉ còn có bà S và Phan Ngọc Xuân L đang sinh sống, còn những đứa cháu và H và những người liệt kê theo biên bản thẩm định thì hiện đều đi làm ăn xa, khoảng vài tháng mới về thăm, không có thường xuyên sinh sống trong nhà. Nếu Tuấn A không chịu thì bà vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện:
- Hủy hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2016 do vi phạm điều kiện tặng cho;
- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 166930, số vào sổ CS06963 do Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 27/5/2016 cho Nguyễn Tuấn A.
Án phí dân sự và chi phí tố tụng: theo quy định pháp luật.
- Bị đơn Nguyễn Tuấn A trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:
Ông Đ và bà S có 02 (hai) người con là Nguyễn Xuân H, Nguyễn Tuấn A. Năm 2008, nhà nước có chủ trương giải tỏa mặt bằng để làm chợ C và gia đình cha mẹ được bồi hoàn, mua 01 nền đất thổ cư diện tích đất 67,5m2 tọa lạc tại phường M và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 354572, số vào sổ H.02909iA do UBND thành phố L cấp ngày 18/7/2008 cho Nguyễn Văn Đ, Lê Thị S. Sau đó, cha mẹ ông tiếp tục được thêm 01 nền khác gần chợ cũng được mua hỗ trợ tái định cư trong năm 2008.
Ông Đ và bà S cất nhà trên diện tích đất 67,5m2 để sinh sống, thời điểm này có ông Đ, bà S và ông cùng 03 người con của bà H cùng sinh sống tại căn nhà này. Thời điểm này bà H sinh sống ở nơi khác, không sinh sống cùng. Sau khi ông Đ chết thì bà S và ông và 03 người con của bà H tiếp tục sinh sống và bà H chỉ thường xuyên tới lui chứ không sinh sống thường xuyên ở đây. Đến năm 2016 thì ông xin cưới vợ nhưng nhà không có tiền và lúc này bà S có đem giấy tờ đất đi vay nhưng không được do mẹ đã già và gia đình mới bàn bạc và mẹ nói là tặng cho ông nhà đất đang ở.
Khi lên phòng công chứng thì được hướng dẫn là làm thủ tục cho hàng thừa kế thứ nhất thống nhất thỏa thuận phân chia di sản thừa kế giao 50% quyền sử dụng đất của ông Đ cho bà S được toàn quyền định đoạt, theo văn bản có công chứng ngày 25/4/2016, đồng thời bà S làm ký hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2016 cho ông Tuấn A. Sau đó, Tuấn A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 166930, số vào sổ CS06963 do Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 27/5/2016 cho Nguyễn Tuấn A. Do thời điểm tặng cho thì nhà chưa được cấp quyền sở hữu nên chỉ làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Sau đó, ông có thể chấp vay ngân hàng nhưng hiện nay ông đã trả hết nợ ngân hàng và giải chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện ông đang giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do thời điểm vay ngân hàng nên ông phải cố gắng đi làm trả nợ, công việc làm ở bên Đồng Tháp nên từ sau khi cưới vợ ông thường xuyên sinh sống bên gia đình vợ để thuận tiện đi làm. Tuy nhiên khi bà S có vấn đề gì hay ốm đau gì thì ông đều chạy về để chăm nom, mỗi tháng do số tiền không còn nhiều nên chỉ cho bà S được khoảng 500.000đ - 600.000đ/tháng.
Đối với nền nhà còn lại, bà S đã bán để trả nợ cho bà H, còn nhà đất này đã tặng cho ông và ông cũng không có đòi bán nhà đất như bà S trình bày. Hiện nay ông đã trả hết nợ, kinh tế thoáng hơn nên vợ chồng ông sẽ dọn về sống cùng bà S và chăm sóc phụng dưỡng bà S. Đối với phương án của bà S thì ông không đồng ý sang lại tên quyền sử dụng đất cho bà S, phương án ông đưa ra là nếu bà S không muốn sống cùng vợ chồng ông thì ông cam kết cho bà S sinh sống đến hết đời, không chuyển nhượng hay đòi nhà đất để bà S sinh sống. Nếu bà S không đồng ý thì ông yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất đã được tặng cho ông và ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật, nhà thì ông xác định chưa tặng cho nhưng nhà được xây dựng từ khi cha còn sống, không phải là tài sản riêng của bà S.
Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà S việc tặng cho là không có điều kiện gì, chỉ đơn thuần là mẹ tặng cho con. Ông xác định ông không có yêu cầu phản tố trong vụ án, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà S. Án phí dân sự và chi phí tố tụng: theo quy định pháp luật.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Xuân H trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của bà S. Đây là nhà đất của cha mẹ để lại và được bà S là mẹ đồng ý và nay bà không có nơi sinh sống nào khác nên bà không đồng ý di dời. Án phí dân sự và chi phí tố tụng: theo quy định pháp luật.
- Tại phiên tòa:
- Nguyên đơn bà Lê Thị S trình bày: nếu ông Tuấn A đồng ý giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà thì bà sẽ rút lại yêu cầu khởi kiện. Bà có ý kiến, bà hoàn lại giá trị diện tích đất theo giá định của Hội đồng định giá cho ông Tuấn A để ông Tuấn A sang tên lại quyền sử dụng đất cho bà. Trường hợp, Tuấn A không đồng ý thì bà vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: hủy hợp đồng tặng cho và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Tuấn A do vi phạm điều kiện tặng cho. Về ý kiến vợ chồng ông Tuấn A về chung sống cùng bà thì bà không đồng ý, bà muốn được chung sống với bà H. Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng dân sự: giải quyết theo quy định pháp luật.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tài sản mà bà S ký hợp đồng tặng cho ông Tuấn A là tài sản chung của cả gia đình và là nơi sinh sống duy nhất của bà, do đó khi ký kết có thỏa thuận ngầm với nhau là ông Tuấn A có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng bà S. Việc thỏa thuận này không có ghi nhận vào hợp đồng và không có làm thành văn bản nhưng đây là điều hợp lý, phù hợp với đạo đức, truyền thống người làm con. Tuy nhiên, sau đó ông Tuấn A sống bên vợ ở Đồng Tháp không chăm sóc phụng dưỡng bà S, như vậy là vi phạm nghĩa vụ làm con, vi phạm điều kiện tặng cho. Trường hợp ông Tuấn A đồng ý giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà S hoặc đồng ý nhận giá trị quyền sử dụng đất thì đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng dân sự: giải quyết theo quy định pháp luật.
- Bị đơn Ông Nguyễn Tuấn A trình bày: ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện và ý kiến của bà S. Việc tặng cho quyền sử dụng đất là tự nguyện và không có bất kỳ điều kiện gì, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông là được cấp đúng quy định pháp luật. Nay ông đã trả hết nợ ngân hàng, vợ chồng ông sẽ về sống cùng bà S và chăm sóc cho bà, trường hợp bà đồng ý thì ông đón bà S theo sống cùng vợ chồng ông. Việc bà S sinh sống tại nhà đất tranh chấp thì ông không có ý kiến, ông đồng ý việc bà S tiếp tục sinh sống ổn định. Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng dân sự: giải quyết theo quy định pháp luật.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H trình bày: bà thống nhất lời trình bày của bà S, bà muốn được tiếp tục sinh sống cùng bà S.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và đương sự đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị S về việc hủy hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2016 do vi phạm điều kiện tặng cho và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06963 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 27/5/2016 cho Nguyễn Tuấn A. Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng dân sự: giải quyết theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Lê Thị S khởi kiện về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với ông Nguyễn Tuấn A có địa chỉ cư trú tại thành phố L nên Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung giải quyết vụ án:
[2.1] Bà S khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất được công chứng ngày 25/4/2016 do vi phạm điều kiện phụng dưỡng, chăm sóc bà và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06963 ngày 27/5/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp cho ông Nguyễn Tuấn A. Ông Tuấn A không đồng ý, theo ông việc tặng cho không có điều kiện và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp đúng quy định pháp luật.
[2.2] Theo hồ sơ trích lục việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lời trình bày của các đương sự cho thấy nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Đ, bà Lê Thị S. Sau khi ông Đ chết, ngày 25/4/2016 thì hàng thừa kế thứ nhất của ông Đ gồm bà S, ông Tuấn A, bà H có lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng tại Văn phòng C1 thỏa thuận giao 50% quyền sử dụng đất nêu trên là di sản thừa kế của ông Đ cho bà S được toàn quyền quản lý, định đoạt. Sau đó, bà S lập hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất cho ông Tuấn A được công chứng tại Văn phòng C1 ngày 25/4/2016, theo đó ông Tuấn A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[2.2] Nay bà S yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất do vi phạm điều kiện tặng cho, căn cứ các Điều 465, 467, 722, 723 Bộ Luật Dân sự 2005, Hội đồng xét xử xét thấy hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất do hai bên tự nguyện ký kết và được công chứng đảm bảo đúng về nội dung, hình thức theo quy định pháp luật và đã được đăng ký vào sổ địa chính do đó hợp đồng có hiệu lực pháp luật và phát sinh quyền nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Việc bà S trình bày điều kiện tặng cho là chăm sóc phụng dưỡng bà tuy nhiên nội dung hợp đồng không có quy định điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất và bà S không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh về việc thỏa thuận điều kiện tặng cho do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S về việc hủy hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất.
[2.3] Về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06963 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 27/5/2016 cho Nguyễn Tuấn A, xét thấy giấy chứng nhận được cấp thông qua thủ tục hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2016. Theo hồ sơ trích lục thể hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tuấn A là đúng trình tự thủ tục, bà S biết việc Tuấn A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như việc Tuấn A thế chấp quyền sử dụng đất vay tiền ngân hàng. Nay Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho từ đó không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[2.4] Về việc bà S cho rằng chỉ tặng cho quyền sử dụng đất không tặng cho quyền sở hữu nhà ở, xét thấy các đương sự không có yêu cầu tranh chấp về quyền sở hữu căn nhà. Đồng thời hiện nhà đất nêu trên vẫn đang do bà S quản lý sử dụng, ông Tuấn A đồng ý việc để bà S tiếp tục sinh sống và không có yêu cầu phản tố trong vụ án. Trường hợp sau này các bên có tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở thì có quyền khởi kiện thành vụ án khác.
[2.5] Đối với những người đang sinh sống trong nhà nêu trên ông Tuấn A và bà S không có yêu cầu do đó Hội đồng xét xử không giải quyết. Trường hợp các bên có tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ án khác.
[2.6] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên bà S phải chịu chi phí tố tụng, bao gồm chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: 1.400.000đ (một triệu bốn trăm ngàn đồng) và chi phí đo đạc 4.212.000đ (bốn triệu, hai trăm mười hai ngàn đồng), bà S đã nộp đủ.
[2.7] về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên bà S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nhưng bà được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi. Ông Tuấn A, bà H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Căn cứ vào Điều 465, Điều 467, Điều 722, Điều 723 Bộ luật dân sự 2005;
- Căn cứ vào Điều 95, Điều 96 Luật Đất đai 2013;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị S đối với bị đơn Nguyễn Tuấn A về việc yêu cầu hủy bỏ hợp đồng tặng cho riêng quyền sử dụng đất ngày 25/6/2016; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06963 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 27/5/2016 cho Nguyễn Tuấn A.
Về chi phí tố tụng: Bà Lê Thị S phải chịu 5.612.000đ (năm triệu sáu trăm mười hai ngàn đồng) chi phí tố tụng. Bà Lê Thị S đã nộp đủ.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị S được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi. Ông Nguyễn Tuấn A, bà Nguyễn Xuân H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 79/2024/DS-ST
Số hiệu: | 79/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về