TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 26/2024/DS-PT NGÀY 05/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TẶNG CHO, CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, CHIA TÀI SẢN CHUNG, THỪA KẾ TÀI SẢN
Trong ngày 05 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 124/2023/TLPT-DS ngày 02 tháng 10 năm 2023, về “Tranh chấp hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chia tài sản chung và thừa kế tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 19/2023/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 177/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 11 năm 2023; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 43/2023/QĐ-PT ngày 27/12/2023; Thông báo mở lại phiên tòa số 02/TB-TA ngày 19/02/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Phan Văn T, sinh năm: 1963.
Địa chỉ: Khu V, phường E, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
2. Ông Trần Hoàng T1, sinh năm 1971.
Địa chỉ: Ấp A, xã V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Hoàng T1: Ông Huỳnh D, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang.
- Bị đơn:
1. Ông Trần Hoàng H, sinh năm 1982.
2. Ông Trần Văn M, sinh năm 1942.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Quang C, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Ấp A, xã V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Quang C: Ông Huỳnh D, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang.
2. Ông Trần Viết N, sinh năm 1968.
Địa chỉ: Ấp H, xã V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3. Ông Trần Hoàng T2, sinh năm 1973.
Địa chỉ: ấp A, thị trấn N, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
4. Bà Trần Thị Bé C1, sinh năm 1979.
Địa chỉ: Ấp A, thị trấn N, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
5. Ông Trần Văn T3, sinh năm 1967 (chết).
Địa chỉ: Số A N, khu phố D, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trần Văn T3:
1. Bà Lư Kim T4, sinh năm 1972.
2. Bà Trần Ngọc H1, sinh năm 1995.
3. Ông Trần Lư Nhật M1, sinh năm 2001.
Cùng địa chỉ: Số A N, khu phố D, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
6. Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Công D1; chức vụ: Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh N1; chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên môi trường huyện V, tỉnh Hậu Giang.
Địa chỉ: Ấp D, thị trấn N, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
7. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Quốc K; chức vụ: Chi cục trưởng. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Chí C2; chức vụ: Phó Chi cục trưởng. Địa chỉ: Ấp D, thị trấn N, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
8. Ông Trần Văn M2, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Ấp A, xã V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
9. Ông Châu Văn K1, sinh năm 1952.
10. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1954.
11. Ông Khưu Bửu T5, sinh năm 1980.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
* Người kháng cáo: Ồng Trần Hoàng H - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn Ông Trần Hoàng T1 có đại diện theo ủy quyền là ông Huỳnh D trình bày: Về nguồn gốc phần đất tranh chấp, do cha là ông Trần Văn M và mẹ là bà Nguyễn Thị H3 tạo lập (bà H3 chết năm 2012), được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng quyền sử dụng đất số 000083 cấp cho hộ ông Trần Văn M, ngày 11/11/1996, thửa đất 441 diện tích 6.882m2, 445 diện tích 12.638m2, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ ông Trần Văn M gồm có: ông Trần Văn M chủ hộ, các thành viên gồm: Bà Nguyễn Thị H3 đã chết năm 2012, ông Trần Viết N, ông Trần Hoàng T1, ông Trần Hoàng T2, ông Trần Quang C, bà Trần Thị Bé C1, ông Trần Hoàng H.
Do ông Trần Viết N, ông Trần Hoàng T2, bà Trần Thị Bé C1 và ông Trần Hoàng H đã có gia đình riêng, không Còn sống ở địa phương từ năm 2003 nên cha mẹ ông T1 giao toàn bộ phần đất trên cho ông T1 và ông Trần Quang C canh tác để nuôi dưỡng cha mẹ già, mỗi người canh tác 01 năm. Cùng năm 2003, cha mẹ ông T1 có cho riêng ông T1 và ông C mỗi người 03 công tầm 3m, mỗi công tương đương 1300m2 tại thửa 445 để canh tác riêng.
Năm 2010, ông Trần Hoàng H cần vốn đề kinh doanh, đã mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông M để đi vay vốn và thế chấp ngân hàng K3 chỉ nhánh L. Ông M bà H3 đồng ý nên đã ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông H. Ông H đã thực hiện thủ tục chuyển quyền theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 26/10/2010 đối với phần đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000083 cấp cho hộ ông Trần Văn M, ngày 11/11/1996 (điều chỉnh ngày 01/11/2010) hồ sơ tặng cho số 31451.00089.TA.VP không Cấp giấy mới, tổng diện tích 19.520m2 thuộc thửa 441 diện tích 6.882m2 và thửa 445 diện tích 12.638m2, tờ bản đồ số 8, tọa lạc, tại ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
Quyền sử dụng đất cấp cho ông M là tài sản chung của hộ ông Trần Văn M. Tuy nhiên, khi tặng cho ông Trần Hoàng H, thì ông Trần Viết N, ông Trần Hoàng T1, ông Trần Quang C, ông Trần Hoàng T2, bà Trần Thị Bé C3 không hay biết và không tham gia vào việc xác lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc ký kết hợp đồng tặng cho đã vi phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông N, ông T1, ông T2, ông C, bà C1. Nay phía ông Trần Hoàng T1 yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 26/10/2010 giữa ông Trần Văn M, bà Nguyễn Thị H3, ông Trần Hoàng H là vô hiệu.
Quá trình tố tụng, ngày 10/4/2023, nguyên đơn ông Trần Hoàng T1 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Quang C có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, chia thừa kế công nhận cho ông Trần Hoàng T1 và ông Trần Quang C phần đất có vị trí số III, diện tích 7.462,5 thuộc thửa 445, tờ bản đồ số 8, theo mảnh trích đo địa chính số 219/SHC ngày 09/02/2023, tọa lạc tại ấp A, xã V, V, Hậu Giang. Ông Trần Hoàng T1 đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T, giao cho ông Phan Văn T sử dụng phần đất tranh chấp số I có diện tích 7.248,9 m2 và phần đất tranh chấp số II có diện tích 3.975,4m2, loại đất LUA có tổng diện tích 11.224,3m2.
Nguyên đơn ông Phan Văn T trình bày: Giữa ông và ông Trần Hoàng H có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với toàn bộ phần đất tại thừa 441, 445 do ông trần H đứng tên chủ sử dụng. Ngày 13/7/2022, ông đã giao số tiền 1.500.000.000 đồng cho ông Trần Hoàng H, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang để thanh toán các khoản nợ thay cho ông H. Chi cục thi hành án huyện Vị Thủy đã ra quyết định số 02/QĐ-CCTHADS ngày 13/7/2022 và số 112/CV CCTHADS ngày 19/7/2022 về việc giải tỏa kê biến đối với 02 thửa đất 441, 445 tờ bản đồ số 8, địa chỉ thửa đất ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
Đến ngày 15/72022, ông thực hiện thủ tục công Chứng với ông Trần Hoàng H hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất số 992, quyền số 01/2022/TP.CC-SCC/HDGD theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000083, ngày 11/11/1996. Sau đó ông nộp hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai huyện V, tỉnh Hậu Giang để làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, Văn phòng đăng ký đất đai huyện V có văn bản trả lời phần đất ông T chuyển nhượng đang tranh chấp nên không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông.
Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Hoàng H có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 02 thừa đất 441, 445 từ tên ông Trần Hoàng H, sang tên ông Phan Văn T. Nếu không thực hiện được ông yêu cầu ông Trần Hoàng H phải trả lại số tiền đã nhận 1.500.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi suất phát sinh kể từ ngày giao nhận tiền, theo quy định pháp luật.
Quá trình tố tụng tại tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm: Ông Phan Văn T thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận một phần hợp đồng và công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đã chuyển nhượng đối với 09 công tầm lớn đã chuyền nhượng của ông Trần Hoàng H thể hiện theo lược đồ số 219/SHC ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ theo diện tích đo đạc thực tế gồm phần đất tranh chấp số I có diện tích 7.248,9 m2 và phần đất tranh chấp số II có diện tích 3.975,4m2, tổng diện tích 11.224,3m2. Ông T yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận cho ông T diện tích đất theo thực tế đo đạc 11.224,3m2. Phần đất còn lại đồng ý trả lại cho Trần Hoàng H để giải quyết tranh chấp với ông Trần Văn M. Theo biên bản thỏa thuận giá 04/01/2023 hai bên thỏa thuận giá 110.000.000 đồng/1 công tầm lớn 1.296 m2 phần đất yêu cầu công nhận có giá 85.000 đồng/m2. Ông T yêu cầu đối với phần tiền còn lại ông Trần Hoàng H4 phải có trách nhiệm trả lại cho ông T là 1.500.000.000 đồng (11 224,3m2 x 85.000 đồng = 954.065.500 đồng) = 545.934.500 đồng, ông T không yêu cầu tính lãi suất.
Bị đơn ông Trần Văn M trình bày: Ông là người đại diện chủ hộ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000083/QSDĐ ngày 11 tháng 11 năm 1996, do Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp cho hộ ông Trần Văn M. Khoảng năm 2010, ông Có ký tên vào văn bản, cho con ông tên Trần Hoàng H làm thủ tục vay tiền, nhưng ông ký không Có đọc nội dung, ông Có tới Ủy ban nhân dân xã V để ký, lúc ký tên chỉ có ông với ông Trần Hoàng H ký tên, không Có vợ, không Có các con ông gồm: Trần Văn T3, Trần Viết N, Trần Hoàng T1, Trần Hoàng T2, Trần Quang C, Trần Thị Bé C1. Lúc ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đất cấp cho hộ, ông T3 cắt hộ khẩu trước năm 1990, chuyển về Kiên Giang, từ trước tới nay ông T3 không Có sử dụng đất. Ông chỉ cho ông Trần Hoàng H 09 công đất tầm lớn vào năm 2010, theo đo đạc thực tế phần đất tranh chấp số I có diện tích 7.248,9 m2 và phần đất tranh chấp số II có diện tích 3.975,4m2, loại đất LUA có tổng diện tích 11.224,3m2. Ông thống nhất cho ông H phần đất này, ông H đã chuyển nhượng cho ông T, nay ông T yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thì ông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T, không tranh chấp. Đối với yêu cầu của ông T1 và ông C yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử đất giữa ông và ông Trần Hoàng H, vì ông bị lừa dối, ông Chỉ ký cho ông H làm thủ tục đi vay tiền, các thành viên trong hộ không có ký tên đầy đủ là không đúng quy định pháp luật thì ông đồng ý với yêu cầu này. Đối với yêu cầu chia tài sản chung, chia thừa kế quyền sử dụng đất của ông T1 và ông C, ông cũng thống nhất. Ông đồng ý giao quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp số III, có diện tích 7.462,5m2, theo lược đồ số 219/SHC ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ cho ông Trần Hoàng T1 và Trần Quang C.
Bị đơn ông Trần Hoàng H trình bày: Ông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hoàng T1, không đồng ý với yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất của ông Trần Quang C và ông Trần Hoàng T1. Ông đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký kết với ông Phan Văn T ngày 15/7/2022, giao thừa đất số 441, 445 tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang cho ông Phan Văn T sử dụng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Quang C có yêu cầu độc lập trình bày: Ông thống nhất với phần trình bày của ông Trần Hoàng T1. Ông có yêu cầu độc lập đứng về phía nguyên đơn ông Trần Hoàng T1 yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận quyền sử dụng đất chung cho ông và ông T1 phần đất tranh chấp số III có diện tích 7,462,5m2, theo lược đồ số 219/SHC ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ông Trần Viết N trình bày: Trong vụ án này, ông không Có tranh chấp với các nguyên đơn, các bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Ông đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T, thống nhất giao cho ông Phan Văn T phần đất tranh chấp số 1 có diện tích 7.248,9 m2 và phần đất tranh chấp số II có diện tích 3.975,4m2, loại đất LUA, có tổng diện tích 11.224,3m2. Đồng ý giao cho ông Trần Hoàng T1 và ông Trần Quang C phần đất tranh chấp số III có diện tích 7.462,5m2, theo lược đồ số 219/SHC ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ. Nếu theo quy định pháp luật ông được nhận một phần quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp, ông thống nhất nhường quyền lại cho hai em ông Trần Quang C4 và Trần Hoàng T1 được hưởng toàn bộ phần quyền mà ông được hưởng. Ông không Có yêu cầu gì trong vụ án, ông yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt ông trong suốt quá trình tố tụng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị H2 trình bày: Bà là vợ ông Châu Văn K1, bà đang sử dụng phần đất đất tranh chấp số II tại thửa 445 có diện tích 3.975,4m2 loại đất, phần đất này bà đã đối với ông Trần Hoàng T1 một phần tương đương tại thừa 442, trường hợp giải quyết tranh chấp Tòa án giải quyết công nhận cho ông Phan Văn T phần đất này thì bà đồng ý, bà không tranh chấp. Trường hợp ông T không đồng ý cho bà sử dụng thì bà lấy phần đất đã đổi cho ông T1 lại sử dụng. Nếu phát sinh tranh chấp về việc đổi đất, bà sẽ khởi kiện thành vụ án khác. Tuy nhiên, chồng bà Châu Văn K1 là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thừa 442. Mọi ý kiến do chồng bà quyết định, bà thống nhất ủy quyền cho chồng bà ông Châu Văn K1 đứng ra giải quyết vụ án. Mọi ý kiến của ông Châu Văn K1 là ý kiến của bà.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Châu Văn K1 trình bày ý kiến: Ông đang sử dụng phần đất tranh chấp tại vị trí có ký hiệu số II, có diện tích 3.975,4m2 loại đất LUA thuộc thửa 445 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Trần Hoàng H, thể hiện tại số 219/SHC ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ. Ông sử dụng phần đất này từ năm nào ông không nhớ, nhưng khoảng 20 năm. Trước đây, ông đã đổi một phần đất của ông Có diện tích 03 công tầm lớn một phần của thửa 442 cho Trần Văn M sử dụng. Hiện tại, phần đất này ông Phan Văn T đang sử dụng và đã cho ông K2 Bửu Tâm thuê lại phần đất tại thừa 442 mà ông đã đổi cho ông M. Đối với phần đất tranh chấp tại vị trí có ký hiệu số II, có diện tích 3.975,4m2 do vợ ông là bà Nguyễn Thị H2 đang sử dụng, ông Phan Văn T vẫn để vợ chồng ông sử dụng phần đất này. Hiện tại, giữa ông và ông Phan Văn T, ông Trần Hoàng H không có phát sinh tranh chấp. Nếu Tòa án giải quyết công nhận phần đất này cho ông T hay người nào khác ông cũng đồng ý, không có tranh chấp. Giữa ông và ông T sẽ tự thỏa thuận việc đổi đất sau. Nếu sau này phát sinh tranh chấp ông sẽ khởi kiện thành vụ án khác. Hiện tại ông đi làm ăn xa ở Cà Mau, không thuận tiện trong việc đi lại, ông và vợ ông không có tranh chấp và không có yêu cầu gì trong vụ án này, ông bảo lưu ý kiến trình bày và yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt ông trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Khưu Bửu T5 trình bày: Hiện tại, ông đang thuê quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp mà ông Phan Văn T đã chuyển nhượng, trong vụ án này, ông không Có tranh chấp, trong trường hợp có phát sinh tranh chấp về hợp đồng thuê đất ông sẽ khởi kiện thành vụ án khác. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt ông trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng T2, bà Trần Thị Bé C1 trình bày ý kiến: Thống nhất với phần trình bày của ông Trần Viết N.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Văn T3 (chết), người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T3 là bà Lư Kim T4 trình bày: Trong vụ án này bà không có tranh chấp, không có ý kiến và yêu cầu gì, nếu Tòa án giải quyết công nhận đất cho bất kỳ đương sự nào trong vụ án này đều không liên quan đến bà, bà yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt bà trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Bà Trần Ngọc H1, ông Trần Lư ngọc M3 trình bày ý kiến thống nhất với phần trình bày của bà Lư Kim T4.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Chỉ cục thi hành án dân sự huyện Vị Thủy do ông Lê Chí C2 đại diện trình bày: Năm 2012, Chi cục thi hành án dân sự huyện Vị Thủy nhận ủy thác thi hành án của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Mỹ: ông H phải trả cho ông Võ Văn T6 số tiền 68.416.400 đồng, sau khi Chi cục thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ông H, qua kết quả xác minh, năm 2010 ông H có nhận tặng cho từ cha ruột 02 thửa đất 441 diện tích 6.842m2, thửa 445 diện tích 12.638 m2. Từ kết quả xác minh trên, ngày 20/6/2013, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vị Thủy tiến hành kê biên đối với thửa 445 diện tích 2.600m đưa ra thẩm định giá, bán đấu giá tài sản theo quy định. Đến tháng 6/2017 phát sinh thêm một trường hợp thi hành án ông H phải thi hành trả cho ông Huỳnh Minh H5 số tiền 517.500.000 đồng. Sau nhiều lần bán đấu giá không có khách hàng đăng ký mua. Đến ngày 13/7/2022 ông H đến Chi cục thi hành án dân sự xin thỏa thuận bán phần đất kê biên để trả cho những người được thi hành án, qua đó ông H4 nộp tiền trả cho ông T6 và các chi phí 116.684.466 đồng. Đối với phần ông H5 ông H đã tự thỏa thuận, ông H5 đã rút đơn yêu cầu thi hành án. Chi cục thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với phần của ông H5. Đồng thời Chi cục thi hành án dân sự đã ra quyết định giải tỏa kê biên trả lại tài sản cho ông Trần Hoàng H theo quy định. Trong vụ án này Chi cục thi hành án không có ý kiến hoặc yêu cầu gì và có yêu cầu giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện V do ông Nguyễn Minh N1 đại diện trình bày: Trong vụ án này Ủy ban nhân dân huyện V không có ý kiến yêu cầu gì, yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 19/2023/DS - ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang đã tuyên xử như sau:
[1] Đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập của ông Trần Văn M2.
[2] Chấp nhấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hoàng T1 và ông Phan Văn T, yêu cầu độc lập của ông Trần Quang C.
[3] Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 26/10/2010 giữa ông giữa bên tặng cho là ông Trần Văn M bà Nguyễn Thị H3 và ông Trần Hoàng H là vô hiệu (được nhận tặng cho theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000083 cấp cho hộ ông Trần Văn M, ngày 11/11/1996 (điều 15 chỉnh ngày 01/11/2010 hồ sơ tặng cho số 31451.00089.TA.VP không Cấp giấy mới), tổng diện tích 19.520m2 thuộc thừa 441 diện tích 6882m2 và thửa 445 diện tích 12.638m2, tờ bản đồ số 8, tọa lạc, tại ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
[4] Về hậu quả của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu: Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện V xóa đăng ký giao dịch chuyền quyền trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000083/QSDĐ ngày 11 tháng 11 năm 1996 do Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp cho hộ ông Trần Văn M đối với hợp đồng tặng cho (điều chỉnh ngày 01/11/2010 hồ sơ tặng cho số 31451.00089. TA VP không cấp giấy mới).
[5] Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự, công nhận một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 992, quyển số 01/2022/TP.CC-SCC/HĐGD ngày 15/7/2022 giữa ông Phan Văn T với ông Trần Hoàng H tại Văn phòng C5.
[6] Giao cho ông Phan Văn T sử dụng phần đất tranh chấp số 1 có diện tích 7,248,9 m2 và phần đất tranh chấp số II có diện tích 3.975,4m2 loại đất LUA có tổng diện tích ông Phan Văn T được giao sử dụng là 11.224,3m2.
[7] Giao cho ông Trần Hoàng T1, ông Trần Quang C4 sử dụng phần đất tranh chấp số III có diện tích 7 462,5m2.
[8] Các phần đất được giao sử dụng thể hiện tại Mành trích đo địa chính số 219/SHC ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ (có lược đồ kèm theo).
[9] Ông Phan Văn T, ông Trần Quang C, ông Trần Hoàng T1 có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[10] Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện V chỉnh lý biến động đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000083/QSDĐ ngày 11 tháng 11 năm 1996 do Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp cho hộ ông Trần Văn M sang tên ông Trần Quang C, Trần Hoàng T1; ông Phan Văn T tương ứng với phần đất được giao sử dụng.
[11] Về hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu một phần: Buộc ông Trần Hoàng H có nghĩa vụ trả lại cho ông Phan Văn T số tiền 545.934.500 đồng (năm trăm bốn mươi lăm triệu chín trăm ba mươi bốn nghìn năm trăm đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Ngày 19/6/2023, ông Trần Hoàng H nộp đơn kháng cáo yêu cầu phúc thẩm xem xét bản án dân sự sơ thẩm số 19/2023/DS - ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, theo hướng sửa một phần bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hoàng T1 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Quang C.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự trình bày:
Phía nguyên đơn - ông Trần Hoàng T1 trình bày: Thống nhất với bản án cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Phía nguyên đơn - ông Phan Văn T trình bày: Thống nhất với bản án cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Phía bị đơn - ông Trần Văn M trình bày: Thống nhất với bản án cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Phía bị đơn - ông Trần Hoàng H trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa một phần bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hoàng T1 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Quang C.
Phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Trần Quang C trình bày: Thống nhất với bản án cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm: Về tố tụng, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Xét nội dung kháng cáo của Ông Trần Hoàng H, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về nguồn gốc phần đất tranh chấp:
Nguyên đơn - ông Trần Hoàng T1, bị đơn ông Trần Văn M và những người có quyền lợi nghĩa vụ là ông Trần Viết N, ông Trần Hoàng T2, ông Trần Quang C, bà Trần Thị Bé C1, ông Trần Hoàng H đều thống nhất trình bày về nguồn gốc đất tranh chấp là do ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị H3 được nhà nước cấp khoảng năm 1980 diện tích 12.638m2 tại thửa 445. Tại phiên tòa phúc thẩm ông T1 và ông C cùng cho rằng nguồn gốc đất của ông M và bà H3 mua thêm của ông Chín T7 và ông Tám T8 (ở địa phương), chuyển nhượng bằng nguồn tiền riêng của cha mẹ ông. Vì vậy, có căn cứ xác định nguồn gốc đất là của ông M, bà H3. Đến năm 1996 được UBND huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng quyền sử dụng đất số 000083 cấp cho hộ ông Trần Văn M, ngày 11/11/1996, thửa đất 441 diện tích 6.882m2, 445 diện tích 12.638m2, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2003 ông M và bà H3 cho ông T1 và ông C mỗi người 03 công tầm 3m, mỗi công tương đương 1.300 m2 tại thửa 445 để canh tác riêng. Đến 26/10/2010 ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị H3 ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Trần Hoàng H có chứng thực tại UBND xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang, nên phát sinh tranh chấp.
Điều 118 Bộ luật dân sự 1995 quy định “Tài sản chung của hộ gia đình gồm tài sản do các thành viên cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ. Quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ gia đình cũng là tài sản chung của hộ.” Tuy nhiên, qua lời trình bày của các đương sự thừa nhận tại phiên tòa phúc thẩm đều cho thấy nguồn gốc đất tranh chấp là do ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị H3 tạo lập, cụ thể là nhận chuyển nhượng của ông Tám T8 và ông Chín T7, không phải do các thành viên cùng nhau tạo lập nên. Do đó, ông M, bà H3 có quyền định đoạt tài sản, cụ thể là từ việc cho đất ông T1 và ông C đến việc tặng cho đất ông H. Sự việc này trước đây các thành viên trong hộ gia đình đều đồng ý và không phát sinh tranh chấp.
[2] Mặt khác, ngày 26/10/2010, ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị H3 ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Trần Hoàng H có chứng thực tại UBND xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Sau khi ký hợp đồng tặng cho, phía ông Trần Hoàng H đã thực hiện thủ tục sang tên, sau đó thế chấp tại Ngân hàng TMCP K3 để vay vốn kinh doanh ao cá. Việc vay vốn kinh doanh đào ao nuôi cá và thế chấp của ông H, tất cả anh chị em trong gia đình đều biết nhưng không ai có khiếu nại. Mặt khác, tại Công văn số 15//UBND ngày 18/01/2024 của Ủy ban nhân dân xã V xác định sau khi chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 26/10/2010 giữa bên tặng Trần Văn M, bà Nguyễn Thị H3, ông Trần Hoàng H thì cũng không ai phát sinh tranh chấp. Từ những phân tích trên và căn cứ Điều 122 Bộ luật dân sự 2005 có cơ sở để tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất xác lập ngày 26/10/2010 giữa ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị H3 với ông Trần Hoàng H có hiệu lực tại thời điểm đăng ký.
[3] Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hoàng T1, yêu cầu độc lập của ông Trần Quang C là chưa có cơ sở, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải sửa bản án sơ thẩm.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn không Cung cấp chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nhưng qua xem xét toàn bộ lời khai của các đương sự, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Hậu Giang, chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bị đơn được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 91, Điều 92, Điều 147, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Các Điều 116, 117, 192, 213, 500, 501, 502, 503, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các Điều 100, 188 Luật đất đai năm 2013.
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Trần Hoàng H.
Sửa bản án sơ thẩm.
[1] Đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập của ông Trần Văn M2.
[2] Không Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hoàng T1, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Quang C về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 26/10/2010 giữa bên tặng cho là ông Trần Văn M bà Nguyễn Thị H3 và ông Trần Hoàng H là vô hiệu.
[3] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T.
[4] Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự, công nhận một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 992, quyển số 01/2022/TP.CC-SCC/HĐGD ngày 15/7/2022 giữa ông Phan Văn T với ông Trần Hoàng H tại Văn phòng C5.
[5] Giao cho ông Phan Văn T sử dụng phần đất tranh chấp số 1 có diện tích 7,248,9 m2 và phần đất tranh chấp số II có diện tích 3.975,4m2 loại đất LUA có tổng diện tích ông Phan Văn T được giao sử dụng là 11.224,3m2.
Giao cho ông Trần Hoàng H sử dụng phần đất tranh chấp số III có diện tích 7.462,5m2.
Các phần đất được giao sử dụng thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 219/SHC ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ (có lược đồ kèm theo).
[6] Ông Phan Văn T có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[7] Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện V chỉnh lý biến động đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000083/QSDĐ ngày 11 tháng 11 năm 1996 do Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh cần Thơ (cũ) cấp cho hộ ông Trần Văn M sang tên ông Phan Văn T tương ứng với phần đất được giao sử dụng.
[8] Về chi phí tố tụng:
- Ông Trần Hoàng T1 và ông Trần Quang C phải chịu số tiền 16.836.000đồng (mười sáu triệu tám trăm ba mươi sáu nghìn đồng). Ông T1, ông C đã nộp xong.
- Ông Trần Hoàng H phải chịu số tiền 10.790.000 đồng (mười triệu bảy trăm chín mươi nghìn đồng), ông Phan Văn T đã nộp xong. Ông Trần Hoàng H phải trả lại cho ông Phan Văn T số tiền 10.790.000 đồng (mười triệu bảy trăm chín mươi nghìn đồng).
[9] Về án phí sơ thẩm:
- Bị đơn ông Trần Hoàng H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí không Có giá ngạch.
- Miễn nộp án phí cho bị đơn ông Trần Văn M do là người cao tuổi.
- Nguyên đơn ông Phan Văn T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (ba tăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003056 ngày 07/11/2022 nhận tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
- Nguyên đơn ông Trần Hoàng T1, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Quang C phải chịu án phí với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu 0008307 ngày 11 tháng 12 năm 2020. Ông T1 và ông C được nhận lại số tiền 7.928.906 đồng (bảy triệu chín trăm hai mươi tám nghìn chín trăm lẻ sáu đồng) theo biên lai thu số 0003315 ngày 10/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
- Ông Trần Văn M2 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002789 ngày 25/4/2022, nhận tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Hoàng H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0003414 ngày 19/6/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
[11] Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 05/3/2024.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chia tài sản chung, thừa kế tài sản số 26/2024/DS-PT
Số hiệu: | 26/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về