Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và huê hụi số 123/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 123/2021/DS-PT NGÀY 30/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN VÀ HUÊ HỤI

Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 166/2021/TLPT-DS ngày 08 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và tranh chấp huê hụi”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 81/2021/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 313/2021/QĐ-PT ngày 15 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1972; trú tại: Số 42, thôn T, xã L, huyện T, tỉnh Đ Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1955; Trú tại: Thôn R, xã G, huyện T, tỉnh Đ (Văn bản uỷ quyền ngày 05/11/2019). Có mặt.

2. Bị đơn: Vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, sinh năm 1973 và bà Lê Thị Thu T, sinh năm 1972; Cùng trú tại: Thôn T, xã H, huyện Đ, tỉnh Đ. Có mặt.

3. Người làm chứng: Ông Nguyễn Đăng K, sinh năm 1991; Ông Nguyễn Đăng P, sinh năm 1997; Cùng trú tại Số 42, thôn T, xã L, huyện T, tỉnh Đ. Vắng mặt.

Người kháng cáo: Bị đơn bà Lê Thị Thu T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị M uỷ quyền cho ông Phạm Văn Q trình bày: Ngày 03/10/2017 vợ chồng ông Huỳnh Như Đ bà Lê Thị Thu T có Hợp đồng miệng bán chiếc xe ô tô hiệu Huyndai biển số 49C15741 với giá 300.000.000đồng (gồm 280.000.000đồng mua xe và 20.000.000đồng làm giấy tờ) và đồng ý giao thị trường kem xã Đà Loan lại cho bà Mỹ. Phương thức thanh toán mỗi tháng trả 10.000.000đồng, bà Mỹ trả trước cho vợ chồng ông Đ 58.633.000đồng. Tính đến ngày 09/3/2018 đã trả 102.658.000đồng, ngày 09/8/2018 trả 60.000.000đồng, tổng số tiền bà Mỹ đã thanh toán mua xe 237.672.000đồng, còn lại 151.810.000đồng chưa thanh toán.

Khi mua giấy tờ xe vợ chồng ông Đ, bà T đang vay Ngân hàng nhưng vì chỗ quen biết nên không đòi giấy tờ xe. Ngày 25/3/2019 ông Nguyễn Đăng K (con trai bà Mỹ) đang lái xe biển số 49C 15741 bị Công an huyện T tạm giữ vì không có giấy tờ xe. Bà Mỹ đã đến nhà ông Đ đề nghị trả tiếp tiền mua xe và đề nghị đưa giấy tờ xe để lên Công an nộp phạt nhận xe về tiếp tục kinh doanh nhưng vợ chồng ông Đ không đồng ý mà yêu cầu phải trả hết tiền mua xe. Sau đó ông Đ mang chiếc xe ô tô nói trên về nhà sử dụng.

Tại biên bản làm việc ngày 24/9/2019 của Công an huyện T vợ chồng ông Đ thừa nhận việc mua bán xe và nhận tiền như đã trình bày ở trên và hai bên thỏa thuận: Bà Mỹ nhận xe về và tiếp tục đóng trả góp. Tuy nhiên, khi đi nhận xe thì xe đang sửa chữa ở ga ra xe Hoàng Sinh và ông Đ yêu cầu phải trả tiền sửa xe bà Mỹ không đồng ý. Nay bà Mỹ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

Tuyên Hợp đồng miệng mua bán xe ô tô hiệu Huyndai biển số 49C 15741 giữa vợ chồng ông Huỳnh Như Đ bà Lê Thị Thu T với bà Nguyễn Thị M vô hiệu và vợ chồng ông Đ có nghĩa vụ hoàn trả số tiền mua xe ô tô 223.633.000đồng, lãi suất theo mức lãi suất cơ bản của ngân hàng trên số tiền đã nhận tạm tính đến ngày 03/8/2020 là 40.000.000đồng, chấp nhận trừ số tiền hao mòn xe 60.000.000đồng. Như vậy, tổng cộng yêu cầu vợ chồng ông Đ bà T trả số tiền: 237.672.000đồng + 40.000.000đồng – 60.000.000đồng = 217.672.000đồng.

Đối với yêu cầu phản tố của vợ chồng ông Đ bà T về số tiền 06 thùng giống chanh dây 18.000.000đồng, tiền huê 27.000.000đồng, tiền bán áo mưa với rau câu 7.300.000 đồng là không đúng. Riêng số tiền kem 9.312.000 đồng là đúng nên yêu cầu giải quyết như sau: Tuyên bố hợp đồng mua bán xe vô hiệu, không bên nào được tính lãi. Hiện nay xe vợ chồng ông Đ bà T hiện đã lấy về, bà Mỹ đã sử dụng 18 tháng, chịu hao mòn 30.000.000đồng còn lại yêu cầu ông Đ bà T trả lại số tiền mua xe đã trả 237.672.000đồng – 30.000.000đồng – tiền kem 9.312.000đồng = 184.321.000đồng. Như vậy, vợ chồng Thủy Điệp phải trả lại cho bà Mỹ số tiền 198.360.000đồng.

Bị đơn vợ chồng ông Huỳnh Như Đ bà Lê Thị Thu T trình bày: Ông bà thừa nhận cả các giấy tờ gốc do bà Mỹ cung cấp và giấy tờ tôi cung cấp đều là chữ do vợ chồng ông bà viết, theo dõi.

Tháng 9/2017 vợ chồng ông bà có bán cho bà Mỹ 01 chiếc xe ô tô trả góp với giá 298.000.000đồng và cho trả góp 1 tháng số tiền gốc, lãi 10.000.000đồng. Bà Mỹ đã trả trước 60.000.000đồng, còn lại 238.000.000đồng chưa thanh toán. Sau khi mua bà Mỹ đã trả đến tháng 3/2019 được 215.000.000đồng, số tiền còn lại chưa thanh toán 151.810.000đồng.

Tháng 4/2019 chiếc xe bị Công an huyện T tạm giữ do giấy tờ xe hết hạn ngân hàng. Sau đó vợ chồng ông bà có nói bà Mỹ đem tiền phạt và tiền góp xe ra để lấy xe về, bà Mỹ cho con cầm biên bản ra đưa nhưng không đưa tiền phạt và tiền góp xe. Vợ chồng bà đợi hơn 10 ngày bà Mỹ vẫn không đem tiền ra, nên ông Đ phải đi xử lý rồi lấy xe về chiếc xe trong tình trạng cũ nát mang xe đi sửa để chạy tạm thời nhưng bà Mỹ vẫn không ra mà nộp đơn lên Công an huyện Đức Trọng. Ngày 24/9/2019 Công an huyện T có mời bà Mỹ và vợ chồng ông bà ra làm việc và thống nhất cho bà Mỹ tiếp tục trả góp, lúc đó chiếc xe đang được sửa chữa ở gara, bà Mỹ phải trả tiền để lấy xe về nhưng mấy ngày sau xe sửa xong bà Mỹ không ra lấy xe.

Nay bà Mỹ khởi kiện thì vợ chồng ông bà không đồng ý vì chiếc xe lúc bán cho bà Mỹ xe còn mới nhưng đến lúc lấy về chiếc xe đã hư hỏng nhiều, nên ông bà phải sửa chữa hết 50.000.000đồng. Nếu bà Mỹ đồng ý lấy xe về phải trả đủ số tiền góp xe còn lại 148.639.000đồng và hoàn trả lại tiền sửa chữa xe 50.000.000 đồng và trả số tiền còn thiếu: tiền mua chanh dây 21.340.000đồng, giống chanh dây là 18.000.000 đồng và tiền huê tháng 7/2018 01 dây huê 3.000.000đồng do bà Mỹ làm cái, đóng được 9 kỳ, đã hốt 27.000.000 đồng; tiền kem 9.312.000đồng; tiền bán áo mưa với rau câu 7.300.000 đồng.Tổng cộng là 82.950.000đồng.

Vợ chồng ông bà đưa ra 02 phương án như sau:

- Bà Mỹ lấy xe phải trả số tiền xe 151.810.000 đồng + 2% lãi suất từ tháng 3/2019 đến nay là 17 tháng x 3.036.000đồng/tháng = 51.612.000đồng; tiền chanh dây, áo mưa, kem, rau câu là 82.950.000 đồng; tiền sửa xe là 25.000.000đồng và tiền phạt xe 1.500.000đồng. Tổng cộng 312.872.000đồng.

- Bà Mỹ không lấy xe thì thanh toán số tiền như sau: Năm đầu giá thuê xe 12.000.000đồng/tháng x 12 tháng = 144.000.000đồng, năm thứ 2: 6 tháng x 10.000.000đồng/tháng = 60.000.000đồng. Vậy tổng số tiền thuê xe 204.000.000 đồng. Số tiền xe đã đóng 215.000.000đồng, còn dư lại 215.000.000đồng – 204.000.000đồng = 11.000.000đồng và trả số tiền nợ tiền chanh dây, áo mưa, kem, rau câu 82.950.000đồng. Tổng cộng phải trả số tiền 82.950.000đồng – 11.000.000đồng = 71.950.000đồng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 81/2021/DSST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện T tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị M, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn vợ chồng ông Huỳnh Như Đ bà Lê Thị Thu T: Tuyên bố hợp đồng mua bán xe tải đông lạnh hiệu HUYNDAI PORTER II, biển số 49C-157.41 là vô hiệu, vợ chồng ông Đ bà T có trách nhiệm trả lại cho bà Mỹ số tiền 110.000.000đ (Một trăm mười triệu đồng chẵn).

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Văn Q và bị đơn vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Theo đó các bên thoả thuận huỷ bỏ hợp đồng mua bán xe tải đông lạnh hiệu HUYNDAI PORTER II, biển số 49C- 157.41; nguyên đơn yêu cầu vợ chồng ông Đ, bà T trả số tiền 100.000.000đồng sau khi đã cấn trừ tất cả các khoản nợ giữa hai bên vợ chồng ông Đ, bà T đồng ý trả số tiền 100.000.000đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn trong hạn luật định. Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ Điều 300 và khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án dân sự sơ thẩm. Công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xuất phát từ việc nguyên đơn bà Nguyễn Thị M khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng mua bán xe ô tô hiệu Huyndai biển số 49C 15741 với vợ chồng ông Huỳnh Như Đ bà Lê Thị Thu T, buộc ông Đ bà T hoàn trả tiền mua xe ô tô 223.633.000đồng, lãi suất theo quy định. Bị đơn vợ chồng ông Đ, bà T không đồng ý và có đơn phản tố yêu cầu bà Mỹ trả tiền mua chanh dây, mua kem và tiền đóng huê 82.950.000đồng nên các bên phát sinh tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và tranh chấp huê, hụi” là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo của bà Lê Thị Thu T Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Văn Q và vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thuy Thủy đã thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Theo đó, các bên thoả thuận huỷ bỏ hợp đồng mua bán xe tải đông lạnh hiệu HUYNDAI PORTER II, biển số 49C-157.41; nguyên đơn yêu cầu vợ chồng ông Đ, bà T trả số tiền 100.000.000đồng sau khi đã cấn trừ tất cả các khoản nợ giữa hai bên vợ chồng ông Đ, bà T đồng ý trả số tiền 100.000.000đồng. Xét việc thỏa thuận của bà Mỹ với vợ chồng ông Đ, bà T là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 300 Bộ luật tố tụng dân sự cần công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể: Huỷ bỏ hợp đồng mua bán xe tải đông lạnh hiệu HUYNDAI PORTER II, biển số 49C-157.41, vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị M số tiền 100.000.000đồng, sửa bản án theo hướng đã nhận định.

[3] Về án phí: Do sửa bản án sơ thẩm nên bà Thuỷ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền thanh toán cho nguyên đơn:

100.000.000đồng x 5% = 5.000.000đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 300 và khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị M với ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T sửa bản án dân sự sơ thẩm số 81/2021/DSST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị M; chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu Thuỷ.

2. Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị M với vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T.

Huỷ bỏ hợp đồng mua bán xe tải đông lạnh hiệu HUYNDAI PORTER II, biển số 49C-157.41.

Buộc vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị M số tiền 100.000.000đồng (một trăm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

2. Về án phí: Buộc vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T phải chịu 5.000.000đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 2.375.000đồng đã tạm nộp theo các biên lai thu số AA/2017/0000194 ngày 02/6/2020, số 0007730 ngày 11/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân huyện Đức Trọng. Vợ chồng ông Huỳnh Như Đ, bà Lê Thị Thu T còn phải nộp số tiền 2.625.000đồng án phí dân sự sơ thẩm còn thiếu.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị M số tiền 5.590.000đồng án phí dân sự đã tạm nộp theo biên lai thu số AA/2016/0014045 ngày 18/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Trọng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và huê hụi số 123/2021/DS-PT

Số hiệu:123/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về