Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 77/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 77/2021/DS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2021/TLST- DS ngày 06/01/2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2021/QĐXXST-DS ngày 06/5/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2021/QĐST-DS ngày 04/6/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Huy H, sinh năm 1976. Địa chỉ: Tổ dân phố Đạo Đường, thị trấn NC, huyện TN, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1973. Địa chỉ: Xóm 18, xã HA, huyện HH, tỉnh Nam Định.

(Anh H có mặt; anh Ch vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27-11-2020, bản tự khai, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Nguyễn Huy H trình bày:

Do được bạn bè giới thiệu nên ngày 08-11-2019, anh Nguyễn Huy H có mua của anh Nguyễn Văn Ch 01 xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower, biển kiểm soát (BKS) 18C-07171, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 013180 do Công an tỉnh Nam Định cấp ngày 16/5/2017 đứng tên Nguyễn Văn San với giá 124.000.000đ (một trăm hai tư triệu đồng). Chiếc xe ô tô này anh Ch mua lại của anh Nguyễn Văn San, chị Nguyễn Thị Huê vào đầu năm 2019. Khi thỏa thuận mua xe ô tô, mặc dù biết xe ô tô đang là tài sản đảm bảo của hợp đồng vay do anh San, chị Huê ký với Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank); anh H không biết anh San, chị Huê là ai nhưng vẫn đồng ý mua lại từ anh Ch. Theo thỏa thuận, anh H trả cho anh Ch 58.000.000đ tiền mặt, số tiền còn lại anh H phải trả góp theo Hợp đồng tín dụng số LN1704250039801 ngày 18-5-2017 giữa anh San, chị Huê và VPBank. Việc anh H thỏa thuận với anh Ch trả nợ thay cho anh San, chị Huê không lập văn bản mà chỉ thỏa thuận miệng; anh H, anh Ch, vợ chồng anh San, chị Huê và Ngân hàng VPBank cũng không có bất kỳ thỏa thuận nào khác mà chỉ có “Giấy Bán xe” được lập giữa anh H và anh Ch.

Sau khi nhận xe sử dụng, hàng tháng, anh H đã nộp tiền vào số tài khoản 122231062 của anh San mở tại Ngân hàng VPBank để thực hiện nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng thay cho anh San, chị Huê, cụ thể: Ngày 20/11/2019, nộp 2.323.000đ; ngày 20/12/2019, nộp 2.322.000đ; ngày 20/01/2020, nộp 2.310.000đ; ngày 29/02/2020, nộp 2.291.000đ; ngày 24/03/2020, nộp 2.224.000đ. Tổng số tiền anh H nộp vào tài khoản số 122231062 của anh San là 11.470.000đ.

Sau tháng 3 năm 2020, VPBank cho biết số tiền anh H nộp vào số tài khoản 122231062 không dùng để trả cho Hợp đồng tín dụng số LN1704250039801 mà trả cho Hợp đồng tín dụng khác của anh San, chị Huê nên anh H không tiếp tục nộp tiền nữa. Tháng 6/2020, anh H đã giao lại xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower, BKS 18C-07171 cho VPBank xử lý theo quy định.

Nay anh H đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower, BKS 18C-07171 giữa anh H và anh Ch là vô hiệu, buộc anh Ch phải trả lại cho anh H số tiền đã nhận là 58.000.000đ. Đối với số tiền 11.470.000đ anh H đã nộp vào tài khoản số 122231062 thực hiện nghĩa vụ trả nợ VPBank thay cho anh San, chị Huê; việc VPBank thu hồi xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower BKS 18C-07171 để xử lý thu hồi nợ, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 27-5-2021, bị đơn anh Nguyễn Văn Ch trình Anh Ch mua xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower, BKS 18C-07171 của anh Nguyễn Văn San và chị Nguyễn Thị Huê vào đầu năm 2019. Sau khi mua xe được một thời gian thì anh H có đến hỏi và mua lại chiếc xe này. Khi anh H hỏi mua, anh Ch cũng đã nói rõ đây là xe trả góp, đang thế chấp tại VPBank nhưng anh H vẫn đồng ý mua. Anh Ch bán xe cho anh H với giá 124.000.000đ. Anh Ch nhận từ anh H số tiền 58.000.000đ, số tiền còn lại hai bên thỏa thuận anh H phải thực hiện nghĩa vụ trả góp theo Hợp đồng tín dụng số LN1704250039801 ngày 18-5-2017 giữa anh San, chị Huê và VPBank. Anh Ch đã giao xe, giấy tờ xe cũng như thông báo cho anh H về cách thức trả tiền nợ cho VPBank hàng tháng. Sau đó, do anh H không trả nợ cho VPBank nên xe bị thu hồi, bán đấu giá tài sản. Do xe bị thu hồi là lỗi anh H nên anh Ch không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh H.

Tại văn bản trả lời, Ngân hàng VP Bank trình bày: VPBank không ký hợp đồng tín dụng; không lập bất cứ văn bản thỏa thuận nào có liên quan với anh H, anh Ch. Ngày 18-5-2017, vợ chồng anh Nguyễn Văn San, chị Nguyễn Thị Huê đã ký hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp xe ô tô hiệu Thaco Tower, biển kiểm soát 18C-07171 cùng số LN1704250039801. Theo đó, bên thế chấp là anh San, chị Huê không được bán, trao đổi, tặng cho…….đối với tài sản thế chấp trong suốt thời hạn thế chấp, trừ trường hợp được Bên Ngân hàng đồng ý trước bằng văn bản (điểm a khoản 2 Điều 6 Hợp đồng thế chấp) và không được chuyển nhượng nghĩa vụ trả nợ cho bên thứ ba trừ trường hợp được Ngân hàng đồng ý bằng văn bản (điểm j khoản 2 Điều 11 Hợp đồng tín dụng). Việc VPBank thu hồi tài sản đảm bảo là xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower, BKS 18C- 07171 mang tên anh Nguyễn Văn San do anh San không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ trả nợ là thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Trong suốt quá trình vay và thế chấp tài sản, anh San, chị Huê bán tài sản bảo đảm cũng như chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho người thứ ba không thông báo cho VPBank, không được VPBank đồng ý bằng văn bản nên VPBank không có lỗi đối với thiệt hại của anh Ch cũng như anh H.

Quá trình giải quyết vụ án, do anh San, chị Huê không có mặt tại địa phương, gia đình và cơ sở xóm đều không biết anh San, chị Huê đang ở đâu, làm gì nên Tòa án không lấy được lời khai của anh San, chị Huê.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Việc thụ lý, giải quyết vụ án của Toà án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật có tranh chấp. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có ý thức chấp hành pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Về nội dung: Mặc dù việc mua bán chiếc xe ô tô BKS 18C-07171 giữa anh Ch và anh H là tự nguyện thỏa thuận nhưng đối tượng tài sản mua bán lại đang thế chấp tại VPBank. Anh Ch không phải là chủ sở hữu hợp pháp nên giao dịch mua bán xe ô tô giữa anh Ch và anh H là vô hiệu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tuyên bố giao dịch mua bán xe ô tô giữa anh H và anh Ch là vô hiệu, buộc anh Ch phải trả lại cho anh H số tiền đã nhận là 58.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

1.1. Bị đơn anh Nguyễn Văn Ch được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Ch là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

1.2. Về xác định tư cách tố tụng: Căn cứ yêu cầu tại đơn khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác định vợ chồng anh Nguyễn Văn San, chị Nguyễn Thị Huê là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh San, chị Huê theo quy định pháp luật nhưng anh San, chị Huê thường xuyên vắng nhà, không đến Tòa án làm việc, không thể hiện ý kiến quan điểm về yêu cầu của các đương sự khác. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết việc anh đã chuyển tổng số tiền 11.470.000đ vào số tài khoản 122231062 mang tên anh San để trả nợ cho anh San, chị Huê. Bị đơn anh Ch cũng không yêu cầu, đề nghị gì liên quan đến anh San, chị Huê. Do đó, kể từ thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, vợ chồng anh San, chị Huê không còn là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Ngoài ra, mặc dù là người biết một số tình tiết có liên quan nhưng do Tòa án không ghi được lời khai của anh San, chị Huê nên không đưa anh San, chị Huê vào tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1. Về hợp đồng mua bán tài sản:

Quá trình giải quyết vụ án, anh H và anh Ch đều thừa nhận, ngày 18-11- 2019 giữa hai bên giao kết hợp đồng mua bán xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower BKS 18C-07171, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 013180 do Công an tỉnh Nam Định cấp ngày 16/5/2017 đứng tên Nguyễn Văn San với giá 124.000.000đ (một trăm hai mươi tư triệu đồng). Anh H, anh Ch đã thỏa thuận hình thức thanh toán, các bên đã thực hiện một phần hợp đồng mua bán. Chiếc xe ô tô này, anh Ch mua lại của vợ chồng anh San, chị Huê cũng với hình thức trả góp cho VPBank như hình thức anh H, anh Ch đã thỏa thuận. Tuy nhiên, chiếc xe ô tô này là tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số LN1704250039801 ngày 17/5/2017 giữa bên thế chấp là anh Nguyễn Văn San, chị Nguyễn Thị Huê và Ngân hàng VPBank để đảm bảo khoản vay theo HĐ tín dụng LN1704250039801 giữa anh San, chị Huê và Ngân hàng VPBank.

Theo thỏa thuận giữa Ngân hàng VPBank và vợ chồng anh Nguyễn Văn San, chị Nguyễn Thị Huê tại Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp xe ô tô cùng số LN1704250039801 thì Bên thế chấp là anh San, chị Huê không được bán, trao đổi, tặng cho…….đối với tài sản thế chấp trong suốt thời hạn thế chấp, trừ trường hợp được Bên Ngân hàng đồng ý trước bằng văn bản (điểm a khoản 2 Điều 6 Hợp đồng thế chấp) và không được chuyển nhượng nghĩa vụ trả nợ cho bên thứ ba trừ trường hợp được Ngân hàng đồng ý bằng văn bản (điểm j khoản 2 Điều 11 Hợp đồng tín dụng). Trong khi đó, trong suốt quá trình vay, VPBank không có bất kỳ văn bản nào thể hiện việc Ngân hàng đồng ý cho anh San, chị Huê bán xe hoặc chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho người thứ ba. Khi ký kết hợp đồng mua bán, các bên không có bất cứ văn bản nào thể hiện việc đã thông báo cho VPBank biết nên VPBank không có nghĩa vụ phải biết việc chuyển giao nghĩa vụ.

Vì vậy, mặc dù hợp đồng mua bán xe ô tô giữa anh anh San, chị Huê và anh Ch; giữa anh Ch và anh H là tự nguyện nhưng không hợp pháp do đối tượng của hợp đồng là tài sản thế chấp nên chủ sử dụng bị hạn chế một số quyền. Quá trình giải quyết vụ án, anh Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết hợp đồng mua bán giữa anh Ch và anh San, chị Huê; anh H đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng mua bán tài sản giữa anh H và anh Ch vô hiệu. Căn cứ Điều 431 Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên bố hợp đồng mua bán xe ô tô (nhãn hiệu Thaco Tower, biển kiểm soát 18C-07171, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 013180 do Công an tỉnh Nam Định cấp ngày 16/5/2017 đứng tên Nguyễn Văn San) giữa anh Nguyễn Huy H và anh Nguyễn Văn Ch vô hiệu toàn bộ.

2.2. Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu:

Quá trình giải quyết vụ án, anh H có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Điều 131 Bộ luật Dân sự quy định về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

“Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

…” Trong vụ án náy, mặc dù chiếc xe ô tô BKS 18C-07171 đã bị VPBank thu hồi, xử lý để thu hồi nợ nhưng không có yếu tố thiệt hại xảy ra đối với các đương sự. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, đánh giá yếu tố “lỗi” để xảy ra hợp đồng vô hiệu mà chỉ buộc các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; cụ thể, buộc anh Ch phải hoàn trả lại cho anh H số tiền gốc đã nhận 58.000.000đ theo yêu cầu của anh H là phù hợp quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự.

Đối với khoản tiền anh H đã nộp vào tài khoản của anh San để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho anh San, chị Huê; việc VPBank thu giữ chiếc xe ô tô BKS 18C-07171 để xử lý; khoản tiền lãi đối với số tiền 58.000.000đ do anh H không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của anh H được chấp nhận toàn bộ nên anh H không phải nộp án phí; anh Ch phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 131, 430, 431 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Huy H.

1. Tuyên bố Hợp đồng mua bán xe ô tô nhãn hiệu Thaco Tower, biển kiểm soát 18C-07171, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 013180 do Công an tỉnh Nam Định cấp ngày 16/5/2017 đứng tên Nguyễn Văn San giữa anh Nguyễn Huy H và anh Nguyễn Văn Ch bị vô hiệu toàn bộ.

2. Buộc anh Nguyễn Văn Ch có nghĩa vụ trả anh Nguyễn Huy H số tiền 58.000.000đ (năm mươi tám triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc anh Nguyễn Văn Ch phải nộp 1.450.000đ (một triệu bốn trăm năm mươi nghìn) án phí dân sự sơ thẩm. Anh Nguyễn Huy H không phải nộp tiền án phí và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.750.000đ (môt triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) tại biên lai số AA/2017/0002474 ngày 06/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 77/2021/DS-ST

Số hiệu:77/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về