Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 67/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 67/2022/DS-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 94/2022/TLST-DS ngày 02 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2022/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 7 năm 2022, giữa:

Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn Ng, sinh năm 1974;

Địa chỉ: ấp Phước A, xã VPĐ, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Bị đơn: Ông Trần Phú Q;

Địa chỉ: ấp Mỹ Phú Tây, xã Hưng Phú, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1976;

Địa chỉ: ấp Phước A, xã VPĐ, huyện P, tỉnh Bạc Liêu (ông Ng, bà Đ có đơn xin vắng mặt, ông Q vắng mặt lần thứ hai không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/5/2022 và các lời khai tiếp theo trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn trình bày: Ngày 03/3/2022 âm lịch, ông có bán lúa cho ông Trần Phú Q với số tiền là 96.317.000đ, khi giao dịch các bên không làm biên nhận chỉ thỏa thuận bằng lời nói, đến ngày 20/3/2022 âm lịch ông Q có viết biên nhận cho ông thể hiện nội dung có nợ tiền lúa của ông với anh S, anh V và chú C, với tổng số tiền là 198.317.000đ, trong đó phần tiền của ông là 96.317.000đ, còn lại là của ông Cả, anh S và ông Ng; khi làm biên nhận thỏa thuận thời gian trả là ngày 22/3/2022 âm lịch, nhưng ông Q chỉ trả được cho ông số tiền 70.000.000đ, còn nợ lại 26.317.000đ, ông làm tròn số là 26.300.000đ. Nay ông yêu cầu ông Trần Phú Q trả số tiền 26.300.000đ;

Theo đơn khởi kiện ông yêu cầu tính lãi suất theo quy định của pháp luật từ ngày 21/3/2022 âm lịch cho đến khi ông Q trả hết nợ, tuy nhiên ông rút lại yêu cầu trên, ông không yêu cầu tính lãi suất.

Đối với bị đơn ông Trần Phú Q từ khi Tòa án thụ lý đến khi mở phiên tòa xét xử, ông Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án đề trình bày ý kiến, nên Tòa án không có lời khai của ông Q.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P trình bày quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn chưa chấp hành quy định tại khoản 16, 17 Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông Q có nghĩa vụ trả cho ông Ng, bà Đ số tiền 26.300.000đ. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn. Về án phí bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi nghe ý kiến phát biểu đề xuất của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Huỳnh Văn Ng yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng hợp đồng mua bán tài sản với bị đơn anh Trần Phú Q, bị đơn có địa chỉ thường trú tại huyện P, tỉnh Bạc Liêu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P theo quy định tại Điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa, ông Ng, bà Đ vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt; ông Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên là phù hợp quy định tại Điều 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu ông Trần Phú Q trả số tiền bán lúa là 26.300.000đ, để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình nguyên đơn cung cấp cho Tòa án biên nhận cam kết ngày 20/3/2022 thể hiện ông Trần Phú Q có nợ ông tiền bán lúa. Quá trình làm việc tại Tòa án ông Ng xác định trong tổng số tiền bán lúa 198.317.000đ tại biên nhận ngày 20/3/2022 thì phần tiền lúa của ông là 96.317.000đ, của anh S số tiền 82.000.000đ, ông Vĩnh số tiền 13.560.000đ, còn lại là của ông Cả hơn 6.000.000đ. Xét thấy, từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ nhưng ông Q không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình, hơn nữa trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông Q không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án, mặc dù Tòa án đã thông báo cho ông Q tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp nhưng vẫn không nhận được ý kiến của ông Q. Mặt khác tại biên bản ghi lời khai ngày 16/8/2022, bà Huỳnh Thị Đủ trực tiếp chứng kiến việc ông Q viết tờ biên nhận ngày 20/3/2022, từ đó cho thấy ông Q có giao dịch mua bán lúa với ông Ng và có lập biên nhận nợ ngày 20/3/2022 âm lịch là có sảy ra trên thực tế, sau khi lập biên nhận nợ ông Q trả cho ông Ng số tiền 70.000.000đ, còn nợ lại 26.317.000đ, nhưng ông Ng chỉ yêu cầu số tiền 26.300.000đ.

[4] Từ những nhận định nêu trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Ng để buộc ông Trần Phú Q có nghĩa vụ trả cho ông Ng số tiền 26.300.000đ.

[5] Về lãi suất: Xét thấy, do ông Huỳnh Văn Ng rút lại một phần yêu cầu về lãi suất, việc rút một phần yêu cầu trên là do ông Ng tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận và căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu tính lãi suất của ông Ng.

[6] Xét đề nghị của kiểm sát viên là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Ông Huỳnh Văn Ng không phải nộp; ông Trần Phú Q phải nộp án phí đối với yêu cầu của ông Ng được Tòa án chấp nhận theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238, khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 430, 440 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Ng đối với ông Trần Phú Q;

Buộc ông Trần Phú Q có nghĩa vụ trả cho ông Huỳnh Văn Ng, bà Nguyễn Thị Đ số tiền 26.300.000đ (hai mươi sáu triệu ba trăm nghìn đồng).

2/ Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính lãi suất của ông Huỳnh Văn Ng.

3/ Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Hoàn lại cho ông Huỳnh Văn Ng số tiền tạm ứng án phí đã nộp 657.000đ tại biên lai thu số 0005240 ngày 02/6/2022; buộc ông Trần Phú Q phải nộp số tiền 1.315.000 đồng. Các đương sự nhận, nộp án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

4/ Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 67/2022/DS-ST

Số hiệu:67/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về