Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 327/2020/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 327/2020/DS-PT NGÀY 26/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN 

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 278/2020/TLPT-DS ngày 22/10/2020 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 26/2020/DS-ST ngày 25/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện M bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 226/2020/QĐ-PT ngày 30/10/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn C, sinh năm 1959 Địa chỉ: Ấp Tân An, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Phan Văn T, sinh năm 1989; địa chỉ: Ấp Tân Hòa Ngoài, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Nguyễn Văn Mười H, sinh năm 1966

2.2. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1965 Cùng địa chỉ: Ấp Đông Thuận, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn Mười H: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1965; địa chỉ:  xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

3. Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn C và trong quá trình tố tụng người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh Phan Văn T trình bày:

Từ năm 2014 đến năm 2019, ông Huỳnh Văn C bán thức ăn chăn nuôi cho ông Nguyễn Văn Mười H và bà Nguyễn Thị Đ, hai bên thỏa thuận khi bán heo (khoảng 04 đến 05 tháng) sẽ thanh toán tiền. Đến tháng 04/2019, hai bên ngưng mua bán do ông H và bà Đ vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Đến ngày 22/6/2019, hai bên tổng kết nợ, ông H và bà Đ thừa nhận còn nợ ông C số tiền 212.425.000 đồng và ký xác nhận nợ nhưng không thanh toán tiền nợ, hiện nay còn nợ số tiên 212.425.000 đồng. Do đó, ông C yêu cầu ông H và bà Đ phải liên đới hoàn trả số tiền 212.425.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Trong quá trình tố tụng bị đơn bà Nguyễn Thị Đ, đồng thời cũng là người đại diện theo ủy quyên của bị đơn ông Nguyên Văn Mười H trình bày:

Vợ chồng bà có hợp đồng mua thức ăn của ông Huỳnh Văn C từ năm 2016, thỏa thuận miệng ông C bán thức ăn đến khi vợ chồng bà bán heo thì sẽ thanh toán tiền (thời gian bán heo từ 06 đến 07 tháng). Đến tháng 4/2019, hai bên ngưng mua bán. Tháng 6/2019, tổng kết nợ thì vợ chồng bà còn nợ ông C số tiền 212.425.000 đồng và có ký xác nhận nợ, do nuôi heo thua lỗ nên không có tiền để trả nợ cho ông C. Hiện nay, vợ chồng bà còn nợ ông C số tiền mua thức ăn là 212.425.000 đồng, vợ chồng ông bà xin trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện M đã đưa vụ án ra xét xử. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 26/2020/DS-ST ngày 25/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện M đã áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; các Điều 288, 357, 430, 440 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc ông Nguyễn Văn Mười H và bà Nguyễn Thị Đ phải liên đới hoàn trả cho ông Huỳnh Văn C số tiền 212.425.000 đồng.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 09/9/2020, bị đơn bà Nguyễn Thị Đ kháng cáo bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét cho bà được trả dần số tiền nợ mua bán thức ăn 212.425.000 đồng, mỗi tháng trả 2.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Đ giữ nguyên nội dung kháng cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xem xét miễn án phí của vợ chồng bà vì hoàn cảnh gia đình bà gặp khó khăn.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Những người tham gia tố tụng chưa thực hiện đúng nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo triệu tập của Tòa án.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 26/2020/DS-ST ngày 25/8/2020 của Tòa án nhân dân M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Phan Văn T là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Huỳnh Văn C được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh T.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Đ (đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyên Văn Mười H) thừa nhận bà Đ và ông H có hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi và hiện nay còn nợ ông C số tiền 212.425.000 đồng, căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì lời thừa nhận của bà Đ là tình tiết không phải chứng minh. Do đó, có căn cứ xác định bà Đ và ông H còn nợ ông C số tiền 212.425.000 đồng.

[3] Bà Đ kháng cáo yêu cầu được trả dần số tiền nợ 212.425.000 đồng theo phương thức mỗi tháng trả 2.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Yêu cầu của bà Đ không được sự đồng ý của nguyên đơn, đồng thời việc bà Đ và ông H mua thức ăn nhưng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả tiền là vi phạm nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông C nên không có căn cứ để chấp nhận.

[4] Đối với yêu cầu miễn án phí của bà Đ: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận và ông H, bà Đ không thuộc diện được miễn án phí nên phải chịu án phí theo quy định.

Từ những nhận định trên, Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Kháng cáo của bị đơn không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[5] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Đ phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ;

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 26/2020/DS-ST ngày 25/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.

Áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; các Điều 288, 357, 430, 440 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc ông Nguyễn Văn Mười H và bà Nguyễn Thị Đ phải liên đới hoàn trả cho ông Huỳnh Văn C số tiền 212.425.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường họp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu câu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[2] Về án phí:

[2.1] Án phí sơ thẩm:

Buộc ông Nguyễn Văn Mười H và bà Nguyễn Thị Đ phải liên đới nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 10.621.000 đồng.

Hoàn trả cho ông Huỳnh Văn C số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.311.000 đồng theo biên lai thu số 0010880, ngày 24/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre.

[2.2] Án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003603 ngày 09 tháng 9 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 327/2020/DS-PT

Số hiệu:327/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về