Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 156/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 156/2021/DS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 138/2021/TLST- DS ngày 12 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 251/2021/QĐXXST-DS, ngày 25 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1977 (có mặt). Địa chỉ cư trú: Khóm 1, thị t, huyện P, tỉnh C.

Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh H1, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Ông Huỳnh Thanh H2 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ cư trú: Khóm 3, thị t, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06/01/2021, các văn bản kèm theo và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Việt S trình bày:

Vào ngày 24/6/2020 ông Huỳnh Thanh H1 có mua điện thoại hiệu Samsung A21 với giá 5.200.000 đồng, quá trình nợ ông H1 có cam kết đến ngày 01/7/2020 sẽ trả cho ông 1.000.000 đồng và đến ngày 24/7/2020 sẽ trả 4.200.000 đồng. Quá trình mua hàng thì ông H1 có ký biên nhận nợ ngày 24/6/2020. Ông sử có liên lạc với với ông Huỳnh Thanh H2 là cha ruột của ông H1, ông H2 có hứa sẽ trả nợ thay cho ông H1.

Tại phiên tòa ông S xác định từ khi nợ tiền ông H1 có trả cho ông S số tiền là 1.000.000 đồng còn nợ lại ông số tiền là 4.200.000 đồng cho đến nay, ông có liên hệ yêu cầu trả tiền nhiều lần nhưng ông H1 và ông H2 không thực hiện và cứ hứa hẹn cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 trả cho ông với tổng số tiền là 4.200.000 đồng không yêu cầu tính lãi suất.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 đúng quy định pháp luật. Nhưng ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 vắng mặt và không cung cấp lời khai, tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa ông Nguyễn Việt S với ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 được xác định là “Hợp đồng mua bán tài sản” là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 có nơi cư trú tại huyện Phú Tân thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ được quy định tại khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhiều lần, nhưng ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 không cung cấp chứng cứ và vắng mặt không có lý do. Nay căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Ông Nguyễn Việt S xác định giữa ông và ông Huỳnh Thanh H1 có thỏa thuận mua điện thoại cụ thể là vào ngày 24/6/2020 ông Huỳnh Thanh H1 có mua điện thoại của ông với số tiền là 5.200.000 đồng. Thời gian thanh toán là ngày 01/7/2020 và ngày 24/7/2020. Quá trình mua hàng thì ông H1 có ký biên nhận nợ ngày 24/6/2020. Ông Huỳnh Thanh H2 có thỏa thuận và cam kết sẽ trả cho ông S số tiền là 5.200.000 đồng. Từ khi nợ tiền đến nay ông H1 và ông H2 đã trả cho ông số tiền 1.000.000 đồng và còn nợ lại 4.200.000 đồng.

Ông Huỳnh Thanh H1 có mua điện thoại và nợ tiền của ông Nguyễn Việt S là thực tế xảy ra và để nợ quá hạn do ông H1 phải trả nợ tiền mau hàng nhưng không thực hiện. Phía ông S đã nhiều lần yêu cầu ông H1 thực hiện nhưng ông H1 không thanh toán cho ông S, ông Huỳnh Thanh H2 có thỏa thuận và cam kết sẽ trả số tiền trên cho ông S. Ông S có cung cấp hai Biên nhận nợ lập ngày 24/6/2020 có nội dung về việc mua hàng nợ tiền, ông Huỳnh Thanh H1 có ký tên đúng như ông S trình bày. Đối với ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 không có ý kiến gì về nội dung khởi kiện và chứng cứ do ông Nguyễn Việt S cung cấp, ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 cũng không có yêu cầu phản tố. Do đó ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho ông Nguyễn Việt S và buộc ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 trả cho Nguyễn Việt sử tổng số còn nợ là 4.200.000 đồng là có cơ sở. Tại phiên tòa ông Nguyễn Việt S không yêu cầu tính lãi suất nên không đặt ra xem xét.

[3] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ, nay buộc ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; nguyên đơn được hoàn lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 430, 440 của Bộ luật dân sự 2015 và áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Việt sử. Buộc ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 cùng liên đới trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền nợ là 4.200.000 đồng (bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

Buộc ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 cùng liên đới phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Ông Nguyễn Việt S đã nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), tại biên lai thu tiền số 0017289 ngày 12/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, nay hoàn lại toàn bộ cho Nguyễn Việt S.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Ông Nguyễn Việt S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Ông Huỳnh Thanh H1 và ông Huỳnh Thanh H2 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 156/2021/DS-ST

Số hiệu:156/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về