Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 04/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 04/2024/DS-ST NGÀY 09/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 01 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 485/2023/TLST-DS ngày 30 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 599/2023/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1977 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Khóm 1, thị t, huyện P, tỉnh C.

Bị đơn: Ông Lư Văn D, sinh năm 1975 (vắng mặt).

Bà Phạm Thị U, sinh năm 1976 (vắng mặt)

Cùng địa chỉ cư trú: Khóm 2, thị t, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 10 năm 2023 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Việt S trình bày: Vào ngày 28/01/2022, ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U có mua 01 bộ ghế salong tại cửa hàng của ông và còn nợ ông số tiền 16.320.000 đồng. Quá trình mua bán, ông D có ký tên vào biên nhận nợ, hẹn thời gian thanh toán là ngày 26/02/2022. Từ khi nợ tiền ông D, bà U có trả cho ông nhiều lần với tổng số tiền là 10.900.000 đồng vào các ngày 23/02/2022, ngày 10/5/2022, ngày 13/7/2022, ngày 09/9/2022, ngày 13/01/2023 và ngày 27/03/2023, sau đó ông có liên hệ yêu cầu trả tiền nhiều lần nhưng ông D, bà U không thực hiện và cứ hứa hẹn cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U trả cho ông với tổng số tiền là 5.420.000 đồng và tính lãi chậm trả từ ngày 28/01/2022 đến khi Toà án giải quyết xong vụ án.

Bị đơn ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng nhưng ông D, bà U vắng mặt không lý do và không cung cấp lời khai, chứng cứ về yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Việt S khởi kiện yêu cầu ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U thanh toán tiền mua hàng của ông; bị đơn ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U có địa chỉ cư trú tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Do đó, đây là tranh chấp về giao dịch dân sự, theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U.

[3] Tại phiên tòa ông S xác định ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U có đến cửa hàng của ông mua 01 bộ ghế salong và còn nợ ông số tiền 5.420.000 đồng. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, ông Nguyễn Việt S cung cấp biên nhận nợ ngày 28/01/2022 có chữ ký ông D, nội dung mua 01 bộ ghế salong còn nợ 16.320.000 đồng cùng phiếu thanh toán các ngày 23/02/2022, ngày 10/5/2022, ngày 13/7/2022, ngày 09/9/2022, ngày 13/01/2023 và ngày 27/03/2023, ông D và bà U đã thanh toán số tiền 10.900.000 đồng và còn nợ 5.420.000 đồng. Đối với ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng không có ý kiến gì về việc yêu cầu của ông S và không cung cấp tài liệu, chứng cứ để phản đối yêu cầu của ông S. Ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U hiện là vợ chồng, số tiền ông D mua tài sản còn nợ ông S là nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân.

Do đó, yêu cầu của ông Nguyễn Việt S, buộc ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông S số tiền 5.420.000 đồng là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về lãi suất: Tại biên nhận ngày 28/01/2022 có quy định thời hạn thanh toán là ngày 26/02/2022. Từ ngày 26/02/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm, ông D và bà U không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết. Như vậy, đến ngày 26/02/2022, ông D và bà U đã vi phạm thời hạn thanh toán nợ cho ông S. Do đó, yêu cầu của ông Nguyễn Việt S buộc ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U phải có nghĩa vụ liên đới trả tiền lãi đối với số tiền nợ gốc là 5.420.000 đồng theo mức lãi suất quy định của Pháp luật tính từ ngày 28/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận.

Ông S, ông D và bà U có thỏa thuận về lãi suất nhưng không xác định được mức lãi suất thỏa thuận cụ thể là bao nhiêu, nên cần áp dụng theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Tiền lãi của số tiền vay 5.420.000 đồng từ ngày 28/01/2022 đến 09/01/2024 là 2.105.000 đồng. Tổng số tiền nợ gốc và lãi là 7.525.000 đồng.

Như vậy, buộc ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U có nghĩa vụ liên đới trả cho ông S tổng số tiền 7.525.000 đồng. Trong đó, nợ gốc là 5.420.000 đồng, nợ lãi là 2.105.000 đồng.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của ông Nguyễn Việt S được chấp nhận nên ông S không phải chịu án phí. Ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm 376.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 217, khoản 1 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 430, Điều 440 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S. Buộc ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Nguyễn Việt S số tiền 7.525.000 đồng (Bảy triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Ông Nguyễn Việt S không phải chịu án phí, ông S đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0019259 ngày 30 tháng 10 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân. Ông S được nhận lại khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Buộc ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U cùng liên đới phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 376.000 đồng (Ba trăm bảy mươi sáu nghìn đồng), nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, ông Nguyễn Việt S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Lư Văn D và bà Phạm Thị U có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 04/2024/DS-ST

Số hiệu:04/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về