Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 04/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 04/2022/DS-ST NGÀY 15/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2021/TLST-DS ngày 04 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 192/2021/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 07/2022/QĐST-DS ngày 17/01/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm V N, sinh năm 1994. Là người đại diện của Hộ kinh doanh T.

Địa chỉ: xã G, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

- Người đại diện theo ủy quyền: Bà Dương G A, sinh năm 1995 (có mặt). Địa chỉ: xã G, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: 1. Ông Nguyễn H Đ (vắng mặt);

2. Bà Nguyễn T T (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: xã G, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 02 năm 2021, tại phiên hoà giải và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của nguyên đơn là bà Dương G A trình bày:

Vào ngày 27/8/2018, ông Nguyễn H Đ cùng Hộ kinh doanh T ký kết hợp đồng mua bán thức ăn tôm và thuốc thủy sản nhằm mục đích để ông Đ nuôi tôm. Thời điểm này ông Nguyễn V T đang là đại diện theo pháp luật của Hộ kinh doanh T nhưng hiện nay đã được thay đổi sang người đại diện pháp luật mới là ông Phạm V N. Vì vậy ông N có quyền tiếp tục xử lý các công nợ, vấn đề liên quan của Hộ kinh doanh T.

Theo thỏa thuận ông N bán cho ông Đ các sản phẩm như: Thức ăn tôm thẻ chân trắng, tôm sú mang nhãn hiệu Việt Hoa, thuốc và hóa chất cho nuôi trồng thủy sản. Quá trình giao nhận hàng hóa thì hai bên sẽ ghi vào sổ theo dõi hàng hóa của mỗi bên. Cụ thể: Ông N giao hàng cho ông Đ tại kho hàng của Hộ kinh doanh T theo đơn hàng hoặc hỗ trợ vận chuyển hàng hóa đến địa điểm của ông Đ nếu có thỏa thuận. Khi nhận hàng thì bên ông Đ phải kiểm tra hàng và ký xác nhận việc giao nhận hàng cho ông N. Kể từ thời gian hàng hóa đã bàn giao xong cho ông Đ và hai bên đã ký xác nhận việc giao nhận hàng thì ông N không chịu trách nhiệm nữa.

Về phương thức thanh toán: Ông Đ phải có nghĩa vụ thanh toán dứt điểm toàn bộ công nợ cho ông N khi thu hoạch tôm, việc ông Đ nuôi tôm bị thất thu (tôm chết trước thời hạn thu hoạch) không đương nhiên làm mất nghĩa vụ thanh toán. Trong trường hợp ông Đ không thanh toán hết phần công nợ cho ông N vào cuối vụ tôm, ông N có quyền cắt hàng, đơn phương chấm dứt Hợp đồng và yêu cầu ông Đ phải thanh toán toàn bộ tiền hàng còn thiếu đến thời điểm ngừng giao dịch.

Tuy nhiên, ông Đ đã không thực hiện đúng theo thỏa thuận ban đầu là thanh toán dứt điểm toàn bộ công nợ cho ông N sau khi thu hoạch tôm. Căn cứ theo Bảng đối chiếu xác nhận công nợ ngày 26/12/2019, ông Đ xác nhận còn nợ ông N số tiền 127.452.000 đồng.

Nay ông Phạm V N là đại diện Hộ kinh doanh T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đ và vợ ông Đ là bà T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Phạm V N là đại diện Hộ kinh doanh T số tiền nợ gốc là 127.452.000 đồng và tiền lãi chậm trả 10%/năm từ ngày 27/12/2019 đến ngày 03/7/2021 và yêu cầu tính lãi chậm trả ở giai đoạn thi hành án.

- Đối với bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T: Ông Đ, bà T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và không gửi văn bản thể hiện ý kiến cho Toà án.

- Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đại diện nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Còn đối với bị đơn ông Đ, bà T chưa chấp hành đúng quy định pháp luật do vắng mặt không có lý do tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, phiên hòa giải.

Bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa xét xử đến lần thứ hai nhưng ông Đ bà T vắng mặt, không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc các bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Phạm V N là đại diện Hộ kinh doanh T số tiền nợ gốc là 127.452.000 đồng và nợ lãi với lãi suất 10%/năm từ ngày 27/12/2019 đến ngày 03/7/2021 và tuyên trách nhiệm chịu án phí sơ thẩm và tiền lãi chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quyền khởi kiện:

Căn cứ vào Văn bản thỏa thuận do ông Nguyễn V T và ông Phạm V N lập ngày 10/7/2020 thì văn bản này có nội dung: Chuyển giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn V T từ hoạt động kinh doanh của Hộ kinh doanh T giai đoạn ông Nguyễn V T làm đại diện cho ông Phạm V N. Thỏa thuận này đã được chứng thực đúng quy định của pháp luật tại Văn phòng công chứng Trần Văn Năm, Phường 7, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng kinh doanh do Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Mỹ Xuyên cấp cho Hộ kinh doanh T. Hội đồng xét xử khẳng định ông Phạm V N là đại diện Hộ kinh doanh T được toàn quyền thay ông Nguyễn V T đòi và thu hồi các khoản nợ trước đây của Hộ kinh doanh T. Vì vậy, trong vụ án này nguyên đơn Phạm V N được quyền khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Đ, bà T thanh toán khoản tiền còn nợ của Hộ kinh doanh T phát sinh trong giai đoạn ông Nguyễn V T làm chủ hộ đăng ký kinh doanh.

[2] Về việc xét xử vắng mặt các bị đơn:

Xét thấy bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai theo quy định nhưng vắng mặt, không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Nguyên đơn ông Phạm V N là đại diện Hộ kinh doanh T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T trả số tiền nợ gốc là 127.452.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 27/12/2019 (là sau ngày đối chiếu công nợ) cho đến ngày 03/7/2021 với lãi suất 10%/năm và yêu cầu tính lãi chậm trả ở giai đoạn thi hành án.

Đối với tiền nợ mua bán là tiền gốc: Nguyên đơn ông Phạm V N là đại diện Hộ kinh doanh T yêu cầu ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T trả số tiền nợ gốc là 127.452.000 đồng. Chứng cứ nguyên đơn đưa ra là sổ ghi chép việc mua hàng của ông Đ có chữ ký của ông Đ, Hợp đồng mua bán ngày 27/8/2018 giữa Hộ kinh doanh T và ông Nguyễn H Đ; Bản đối chiếu xác nhận công nợ tháng 12/2019 đối với khách hàng Nguyễn H Đ.

Xét thấy, những chứng cứ nêu trên thể hiện khi đối chiếu công nợ số nợ còn lại là 127.452.000 đồng và đều có chữ ký xác nhận của ông Nguyễn H Đ. Ông Đ, bà T đã được Toà án cấp tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng, hợp lệ theo quy định pháp luật nhưng không có ý kiến phản đối và vắng mặt trong suốt quá trình xét xử vụ án. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì lời trình bày của đại diện nguyên đơn và chứng cứ nguyên đưa ra là có căn cứ và nguyên đơn không cần phải chứng minh.

Việc thỏa thuận của nguyên đơn và bị đơn về việc mua bán thức ăn nuôi tôm và thuốc cho nuôi thuỷ sản là tự nguyện, bình đẳng, không trái với quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên được xác định đây là hợp đồng dân sự mà cụ thể là hợp đồng mua bán tài sản được điều chỉnh tại Điều 430 của Bộ luật Dân sự năm 2015 được pháp luật bảo vệ.

Ông Phạm V N đã thực hiện nghĩa vụ bán và chuyển giao tài sản là thức ăn chăn nuôi tôm và thuốc thủy sản cho bên mua là ông Nguyễn H Đ. Ông Đ đã nhận đủ tài sản do ông N chuyển giao nêu trên để phục vụ việc nuôi tôm, phát triển kinh tế gia đình nhưng ông Đ chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ông N theo thỏa thuận và ông Đ còn nợ của ông N số tiền là 127.452.000 đồng là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại Điều 440 của Bộ luật Dân sự. Do đó, ông Phạm V N yêu cầu ông Đ trả số tiền nợ 127.452.000 đồng là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về yêu cầu trả lãi: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lãi theo lãi suất 10%/năm đối với số tiền nợ gốc 127.452.000 đồng từ ngày 27/12/2019 (là sau ngày đối chiếu công nợ) cho đến ngày 03/7/2021 và yêu cầu tính lãi chậm trả giai đoạn thi hành án.

Theo hợp đồng mua bán hàng hoá giữa ông Phạm V N là người đại diện Hộ kinh doanh T và ông Nguyễn H Đ thì hai bên không thoả thuận lãi nhưng nay ông Phạm V N yêu cầu trả lãi đối với số tiền chậm trả thì lãi suất được tính theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, là 10%/năm. Nguyên đơn yêu cầu trả lãi với mức lãi suất 10%/năm kể từ ngày đối chiếu công nợ là ngày 27/12/2019 là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Thời gian từ ngày 27/12/2019 đến ngày 03/7/2021 là 01 năm 06 tháng 06 ngày, tuy nhiên đại diện nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi thời gian 01 năm 06 tháng nên tiền lãi được tính như sau: 127.452.000 đồng x 10%/năm x 01 năm 06 tháng = 19.117.800 đồng.

Như vậy, bị đơn phải có nghĩa vụ trả nợ gốc và tiền lãi cho nguyên đơn với tổng số tiền là 146.569.800 đồng, trong đó nợ gốc là 127.452.000 đồng, nợ lãi tính từ ngày 27/12/2019 đến ngày 03/7/2021 là 19.117.800 đồng và ông Nguyễn H Đ còn phải chịu lãi chậm trả ở giai đoạn thi hành án.

[5] Về nghĩa vụ trả nợ: Ông Đ và bà T là vợ chồng. Việc mua thức ăn nuôi tôm là để phục vụ chung cho gia đình nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 27 và khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định ông Đ và bà T phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán số tiền mua thức ăn nuôi tôm còn nợ và tiền lãi chậm trả cho phía nguyên đơn.

[6] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn ông Phạm V N được Hội đồng xét xử chấp nhận nên ông N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định khoản 2 Điều 143, khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 và khoản 2 Điều 143, khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 357, Điều 430, Điều 440 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 27 và khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm V N là người đại diện Hộ kinh doanh T về việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.

2. Buộc bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Phạm V N là người đại diện Hộ kinh doanh T tổng số tiền là 146.569.800 (một trăm bốn mươi sáu triệu, năm trăm sáu mươi chín nghìn, tám trăm) đồng, (trong đó nợ gốc là 127.452.000 đồng, nợ lãi tính từ ngày 27/12/2019 đến ngày 03/7/2021 là 19.117.800 đồng).

3. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Nguyên đơn ông Phạm V N là đại diện Hộ kinh doanh T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.531.583 (ba triệu năm trăm ba mươi mốt nghìn năm trăm tám mươi ba) đồng theo biên lai thu số 0009235 ngày 04/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

Bị đơn ông Nguyễn H Đ và bà Nguyễn T T phải liên đới nộp án phí dân sự là 7.328.490 (bảy triệu ba trăm hai mươi tám nghìn bốn trăm chín mươi) đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

6. Về việc thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 04/2022/DS-ST

Số hiệu:04/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về