Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 02/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 02/2023/DS-ST NGÀY 18/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 89/2022/TLST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2022 v/v“Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2023/QĐST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1981; địa chỉ: khu phố 9, phường L , thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước Bị đơn: bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu phố 1, phường L, TX Phước Long, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Võ Bá H2, sinh năm: 1976 Địa chỉ: Khu phố 1, phường L, TX Phước Long, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn – Bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà H và bà T có làm ăn mua bán hạt điều nhân thường xuyên, chốt lại bà T còn thiếu nợ bà H số tiền 454.291.000đ. Đã nhiều lần bà H hối thúc bà T trả số tiền trên nhưng bà T cứ hứa hẹn. Khi hứa hẹn bà có đưa bà H giữ làm tin 1 tờ giấy mua bán đất giữa bà với ông Lê Thanh H1, ký ngày 11/04/2022. Khi đưa bà T nói bà H mang giấy này đi cầm cố cho bên thứ ba để thu hồi nợ nhưng bà H thấy đây là giấy viết tay nên bà H cầm làm tin chứ không mang đi cầm cho người khác.

Bà H cho rằng bà T mua bán lấy tiền về lo cho gia đình chồng con; bà T cũng thừa nhận là chồng bà không đi làm chỉ ở nhà giữ con và chăm lo nhà cửa, toàn bộ số tiền chi tiêu trong gia đình là do bà T làm ra hết. Do vậy bà H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T và ông H2 liên đới chịu trách nhiện trả số tiền trên cho bà.

Bị đơn – bà Nguyễn Thị T trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:

Từ tháng 06 đến tháng 08 năm 2021, bà T và bà H có làm ăn mua bán hạt điều nhân thường xuyên, chốt lại bà T còn thiếu nợ bà H số tiền 454.291.000đ. bà H đã nhiều lần hối thúc bà T trả số tiền trên nhưng do bà T làm ăn thua lỗ nên bà không có tiền để trả cho bà H.

Bà cũng thừa nhận có đưa cho H giữ làm tin 01 tờ giấy mua bán đất giữa bà với ông Lê Thanh H1, ký ngày 11/04/2022 với mục đích để bà H đi cầm cố thu hồi nợ và bà có ghi giấy chốt nợ cho bà H với số tiền trên.

Khi mua bán thu nhập một phần lo cho gia đình còn phần khác là xoay sở lãi lời. Chồng bà là ông H2 không có việc làm ở nhà chăm con và lo cho gia đình, mọi chi phí sinh hoạt trong nhà thì do bà T lo hết.

Nay bà H khởi kiện thì bà đồng ý có nguyện vọng cho bà qua tết để sắp xếp trả tiền cho bà H chứ hiện tại bà đang rất khó khăn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Bá H2 trong quá trình giải quyết vụ án và tại Tòa trình đều vắng mặt nên không có ý kiến trình bày:

Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử: Đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã tuân thủ đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Nguyễn Thị T và ông Võ Bá H2có nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn là bà H số tiền là 454.291.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ vào các điều 227, 280 bộ luật tố tụng dân sự, vụ án vẫn đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

[2] Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phước Long theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[3] Xét lời trình bày và yêu cầu của nguyên đơn:

Tại đơn khởi kiện, bản tự ghi lời khai, nguyên đơn bà H đều trình bày có làm ăn mua bán hạt điều nhân thường xuyên với bị đơn là bà T, chốt lại bà T còn thiếu nợ bà H số tiền 454.291.000đ và bị đơn bà T cũng thừa nhận số tiền còn thiếu do việc mua bán với nhau giữa hai người như nguyên đơn đã khởi kiện và trình bày. Đây là tình tiến không phải chứng minh. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bà T và chồng là ông H2 phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền trên là phù hợp với quy định.

[4] Xét lời trình bày của bị đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn thừa nhận số tiền còn thiếu trên và bà cũng thừa nhận trong gia đình bà là lao động chính, mọi thu nhập phát sinh từ việc mua bán cũng như làm ăn của bà thì một phần bà trang trãi nợ nần, một phần bà phục vụ cho gia đình chồng con vì chồng bà không làm gì ra tiền chỉ ở nhà trông nom việc nhà và con cái. Nhưng do bà khó khăn nên bà không có tiền trả ngay cho bà H nên bà xin khấc trả sau. Mặc khác, trong luật hôn nhân gia đình cũng đã quy định, nợ trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng là nợ chung nếu một trong hai bên hoặc cả hai bên không chứng minh được đó là nợ riêng.

Do vậy, yêu cầu của nguyên đơn là buộc bị đơn bà T và ông H2 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải liên đới trả cho Nguyên đơn số tiền trên là hoàn toàn có cơ sở, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Bá H2: Trong quá trình giải quyết vụ án, ông đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng ông không hợp tác làm việc cũng như không thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, như vậy ông tự mình từ bỏ quyền lợi của mình.

[6] Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Nguyên đơn không phải chịu án phí nên được hoàn trả lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 91; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1,3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Áp dụng: các Điều 429, 430, 440 Bộ luật dân sự 2015; Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn bà Nguyễn Thị T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quan ông Võ Bá H2về việc “tranh chấp hợp đồng mua bán tải sản”.

2. Buộc bà Nguyễn Thị T và ông Võ Bá H2có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền là 454.291.000đ (Bốn trăm năm mươi bốn triệu hai trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

3.1. Bà Nguyễn Thị T và ông Võ Bá H2 phải có nghĩa vụ liên đới chịu án phí sơ thẩm có giá ngạch là 22.171.640 đồng (Hai mươi hai triệu một trăm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm bốn mươi đồng).

Hoàn trả lại cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.357.275 đồng (Mười một triệu ba trăm năm mươi bảy nghìn hai trăm bảy mươi lăm đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0008318 ngày 19/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các đương sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, Người có quyền lợi Nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 02/2023/DS-ST

Số hiệu:02/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về