Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 23/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 23/2021/DS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2021/TLST-DS, ngày 13 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị O, sinh năm 1965. Địa chỉ: Số, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Lê Thị O: Bà Phạm Thị Thúy D, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Bị đơn:

+ Ông Trần Văn T, sinh năm 1967. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

+ Bà Võ Thị L, sinh năm 1964. Địa chỉ: Số, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 12/01/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp nguyên đơn bà Phạm Thị Thúy D trình bày:

Vào năm 2018 bà Lê Thị O có hợp đồng mua bán thức ăn, vôi, thuốc nuôi tôm cho ông T và bà L. Khi mua bán có mở sổ theo dõi với nhau. Theo hợp đồng sau khi thu hoạch tôm thì ông T và bà L sẽ trả đủ tiền cho bà O 01 lần. Nếu ông T và bà L không trả hoặc trả không đủ 01 lần thì số tiền nợ còn lại ông T, bà L và bà O thỏa thuận phải chịu lãi với lãi suất thỏa thuận là 1%/tháng. Quá trình mua bán diễn ra nhiều lần, đến ngày 27/10/2019 hai bên có tổng kết nợ trên sổ mua bán, ông T và bà L thừa nhận còn nợ bà O số tiền là 756.316.000 đồng, nhưng ông T và bà L không có tiền trả cho bà O .

Nay người đại diện hợp pháp cho bà Lê Thị O yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Võ Thị L và ông Trần Văn T phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà O số tiền mua thức ăn, vôi, thuốc nuôi tôm tiền gốc là 756.316.000 đồng và tiền lãi 01%/tháng kể từ ngày 28/10/2019 đến ngày Tòa án xét xử , yêu cầu ông T và bà L trả đủ 01 lần trong thời gian 30 ngày và yêu cầu tính tiền lãi phát sinh theo hợp đồng là 01%/tháng cho đến khi ông T và bà L thanh toán xong số tiền.

- Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trần Văn T trình bày: Vào năm 2018 bà Lê Thị O có hợp đồng mua bán thức ăn, vôi, thuốc nuôi tôm cho ông T và bà L. Khi mua bán có mở sổ theo dõi với nhau. Theo hợp đồ ng sau khi thu hoạch tôm thì ông T và bà L sẽ trả đủ tiền cho bà O 01 lần. Nếu ông T và bà L không trả hoặc trả không đủ 01 lần thì số tiền nợ còn lại ông T, bà L và bà O thỏa thuận phải chịu lãi với lãi suất thỏa thuận là 1%/tháng. Quá trình mua bán diễn ra nhiều lần, đến ngày 27/10/2019 hai bên có tổng kết nợ trên sổ mua bán, ông T và bà L thừa nhận còn nợ bà O số tiền là 756.316.000 đồng, nhưng ông T và bà L không có tiền trả cho bà O .

Ông T thừa nhận tính đến ngày 24/3/2021 ông T và bà L còn nợ bà O số tiền gốc là 756.316.000 đồng và tiền lãi là 127.812.000 đồng, tổng cộng gốc và lãi là 884.128.000 đồng (Tám trăm tám mươi bốn triệu một trăm hai mươi tám ngàn đồng) và ông T, bà L thống nhất hoàn trả cho bà O số tiền gốc và tiền lãi là 884.128.000 đồng (Tám trăm tám mươi bốn triệu một trăm hai mươi tám ngàn đồng), nhưng do hiện nay hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp khó khăn, nên ông T và bà L xin bà O cho ông T và bà L trả dần mỗi năm là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), trả đến khi nào hết nợ.

- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn bà Võ Thị L trình bày: Vào năm 2018 bà Lê Thị O có hợp đồng mua bán thức ăn, vôi, thuốc nuôi tôm cho bà L và ông T. Khi mua bán có mở sổ theo dõi với nhau. Theo hợp đồng sau khi thu hoạch tôm thì bà L và ông T sẽ trả đủ tiền cho bà O 01 lần. Nếu bà L và ông T không trả hoặc trả không đủ 01 lần thì số tiền nợ còn lại bà L, ông T và bà O thỏa thuận phải chịu lãi với lãi suất thỏa thuận là 1%/tháng. Quá trình mua bán diễn ra nhiều lần, đến ngày 27/10/2019 hai bên có tổng kết nợ trên sổ mua bán, bà L và ông T thừa nhận còn nợ bà O số tiền là 756.316.000 đồng, nhưng bà L và ông T không có tiền trả cho bà O.

Bà L thừa nhận tính đến ngày 29/9/2021 bà L và ông T còn nợ bà O số tiền gốc là 756.316.000 đồng, tiền lãi phát sinh là 01%/tháng và bà L và ông T thống nhất hoàn trả cho bà O số tiền gốc 756.316.000 đồng và tiền lãi phát sinh 01%/tháng kể từ ngày 28/10/2019, nhưng do hiện nay hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp khó khăn, nên bà L và ông T xin bà O cho bà L và ông T trả dần mỗi năm là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), đến khi trả hết nợ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao dung, tỉnh Sóc Trăng về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện lập ngày 12/01/2021, bà Lê Thị O yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán đối với bị đơn ông Trần Văn T bà Võ Thị L cư trú tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

[2] Về xét xử vắng mặt: Tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Trần Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai và ông T có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về nội dung vụ án:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho các bị đơn. Tòa án tiến hành lấy lời khai ông T, bà L thống nhất xác định là có việc ông T, bà L có mua thức ăn, vôi, thuốc nuôi tôm của bà Lê Thị O và còn nợ lại số tiền gốc là 756.316.000 đồng và tiền lãi là 01%/tháng kể từ ngày 28/10/2019, nhưng do hiện nay hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp khó khăn, nên ông T và bà L xin bà O cho ông T và bà L trả dần mỗi năm là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), đến khi trả hết nợ. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định tình tiết nêu trên là tình tiết, sự kiện nguyên đơn không cần phải chứng minh.

[4]. Theo trình bày của người đại diện hợp pháp nguyên đơn bà Phạm Thị Thúy D khi hai bên tiến hành hợp đồng mua bán thức ăn, vôi và thuốc nuôi tôm thì thỏa thuận khi thu hoạch tôm sẽ trả tiền. Khi mua bán nguyên đơn bà Lê Thị O đã giao đủ thức ăn, vôi và thuốc nuôi tôm cho bị đơn và bị đơn ông Trần Văn T, bà Võ Thị L đã nhận xong, nhưng không thanh toán tiền đầy đủ cho bên bán là vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 434 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bị đơn ông Trần Văn T, bà Võ Thị L phải trả tiền mua thức ăn, vôi, thuốc nuôi tôm của bà O là 756.316.000 đồng và tiền lãi xuất theo thỏa thuận trong hợp đồng theo quy định tại Điều 289 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, vợ chồng ông T, bà L phải liên đới trả số tiền nợ mua thức ăn nuôi tôm, thuốc thủy sản cho nguyên đơn bà Lê Thị O theo quy định tại các điều 27, 30 và 37 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5]. Về lãi suất: Khi ký kết hợp đồng mua bán các bên thỏa thuận lãi suất là 01%/tháng và tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu về lãi suất, bị đơn đồng ý trả lãi theo thỏa thuận, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 357 và khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự quy định các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/01 năm nên mức lãi suất các bên thỏa thuận 01%/tháng bằng 12%/năm là phù hợp. Do vậy, mức lãi suất các bên thỏa thuận trước đây không cao so với mức lãi suất quy định. Như vậy, tính từ ngày 28/10/2019 đến ngày 29/9/2021 là 01 năm 11 tháng 01 ngày như sau: 756.316.000 đồng x 12%/năm x 01 năm = 90.757.920 đồng; 756.316.000 đồng x 12%/năm/12 tháng x 11 tháng = 83.194.760 đồng; 756.316.000 đồng x 12%/năm/12 tháng/30 ngày x 01 ngày = 252.105 đồng.

[6] Đối với ý kiến của ông Trần Văn T, bà Võ Thị L xin trả dần mỗi năm 30.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ, xét thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ông Trần Văn T và bà Võ Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo bản án: Hội đồng xét xử áp dụng Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 92, Điều 144, Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 289, khoản 2 Điều 357, Điều 430, khoản 3 Điều 434; Điều 440, khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27, Điều 30, Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị O. Buộc ông Trần Văn T và bà Võ Thị L liên đới trả cho bà O số tiền là 756.316.000 đồng (bảy trăm năm mươi sáu triệu ba trăm mười sáu nghìn đồng) và tiền lãi tính đến ngày xét xử là 174.204.785 đồng (một trăm bảy mươi bốn triệu hai trăm lẻ bốn nghìn bảy trăm tám mươi lăm đồng). Tổng cộng là 930.520.785 đồng (chín trăm ba mươi triệu năm trăm hai mươi nghìn bảy trăm tám mươi lăm đồng).

2. Về chậm thực hiện nghĩa vụ: Kể từ ngày 30/9/2021 ông T, bà L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

3. Về án phí sơ thẩm: Ông Trần Văn T và bà Võ Thị L phải chịu 39.915.624 đồng (ba mươi chín triệu chín trăm mười lăm nghìn sáu trăm hai mươi bốn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Lê Thị O không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà O số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 17.126.000 đồng (mười bảy triệu một trăm hai mươi sáu nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006972 ngày 13/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Lê Thị O, bị đơn bà Võ Thị L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn ông Trần Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

531
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 23/2021/DS-ST

Số hiệu:23/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về