TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 29/2021/DS-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ
Ngày 11 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 197/2020/TLST-DS ngày 09 tháng 06 năm 2020 về: “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST– DS ngày 11 tháng 05 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty P; địa chỉ trụ sở: Số 26-27, Lô I, đường K, phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đặng V, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 26-27, Lô I, đường K, phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - có mặt.
- Bị đơn: Ông Lý C, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 164C/65, đường Q, phường 3, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh - vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện ngày 15/05/2020, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Đặng V trình bày:
Ngày 12/07/2010, Công ty P và ông Lý C ký kết Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/07/2010. Theo Hợp đồng, ông C mua của Công ty P căn hộ số D4-1, Tầng 4, Lô D tại chung cư M, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương. Đến ngày 08/4/2011, giữa Công ty P với ông Lý C ký phụ lục Hợp đồng số 77PM/PLHĐ/2011 về việc thay đổi tiến độ thanh toán thành 02 đợt, trong đó: Đợt 01 là 30% giá trị hợp đồng; đợt 02 là 70 % giá trị hợp đồng, trả góp trong 10 năm với mức lãi suất là 17.5 %/năm. Nếu quá 45 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, ông C chưa thanh toán tiền thì Công ty Pcó quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng: Ông C đã thanh toán cho Công ty P với số tiền là 78.795.293 đồng, tương đương 39% giá trị hợp đồng, số tiền còn lại của hợp đồng ông C không thanh toán. Công ty P đã nhiều lần gửi thông báo yêu cầu ông C đóng tiền nhưng ông C vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Về phía Công ty P, mặc dù ông C không thanh toán tiền đợt 02 theo thỏa thuận, nhưng Công ty P vẫn hoàn tất thủ tục sang tên Giấy chứng nhận cho ông Chung, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp cho ông Lý C ngày 15/10/2014.
Đối với căn hộ D4-1, Tầng 4, Lô D, Công ty P chưa tiến hành thủ tục bàn giao cho ông C, do ông C chưa thanh toán tiền. Đồng thời, cho đến nay, Công ty P cũng chưa tiến hành thủ tục hóa giá hoặc bán căn hộ D4-1, Tầng 4, Lô D như theo thỏa thuận tại các điểm a, mục 2.1 Điều 2 của Phụ lục hợp đồng số 77PM/PLHĐ/2011.
Do ông C vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền, nên Công ty P khởi kiện yêu cầu như sau:
- Tuyên chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010 được ký kết giữa Công ty P với ông Lý C;
- Buộc ông Lý C hoàn trả cho Công ty P căn hộ D4-1, Tầng 4, Lô D chung cư M, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương.
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp cho ông Lý C ngày 15/10/2014.
Đối với số tiền 78.795.293 đồng, Công ty P có yêu cầu như sau: Căn cứ theo thỏa thuận tại khoản 2.3 Điều 2 của Phụ lục hợp đồng, các khoản giảm trừ do ông C vi phạm hợp đồng gồm:
- Vi phạm hợp đồng: 203.962.500 đồng x 25% = 50.990.625 đồng.
- Bồi thường chi phí hoạt động hành chính: 203.962.500 đồng x 5% = 10.198.125 đồng.
Tổng cộng là 61.188.750 đồng.
Như vậy, số tiền Công ty P đồng ý hoàn trả cho ông C là: 78.795.293 đồng – 61.188.750 đồng = 17.606.543 đồng.
Trong quá trình tố tụng, Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn là ông Lý P; nhưng ông C không đến Tòa án làm việc theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án nên Tòa án không thu thập được lời khai của ông C.
Tại phiên tòa:
Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Thời hạn thụ lý, giải quyết vụ án; việc cấp tống đạt văn bản pháp luật và việc tuân thủ quy định pháp luật của người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
1.1 Bị đơn ông Lý C đã được Tòa án tiến hành tống đạt văn bản tố tụng. Tuy nhiên, tại thời điểm tống đạt văn bản tố tụng, ông C không có mặt tại địa phương. Căn cứ vào các quy định tại Điều 174; Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án đã tiến hành lập các Biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, tống đạt, thông báo cho ông C và Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng ông C không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa xét xử. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Chung.
1.2 Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp cho ông Lý C ngày 15/10/2014. Xét thấy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất này được cấp trên cơ sở Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ký kết ngày 12/07/2010 giữa Công ty P và ông Lý C. Theo hướng dẫn tại Mục 2, Phần II của Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/04/2019 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án không đưa Ủy ban nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Xét hiệu lực của Hợp đồng mua bán căn hộ số 136 PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010 và Phụ lục hợp đồng số 77PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011: Hợp đồng mua bán căn hộ số 136 PM/HĐMB/2010 ngày 12/07/2010 và Phụ lục hợp đồng số 77 PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011 do người đại diện hợp pháp của Công ty P và ông Lý C tự nguyện ký kết. Mục đích, nội dung, hình thức của hợp đồng đảm bảo các điều kiện được quy định tại các Điều 117, 119 Bộ luật Dân sự. Do đó, Hợp đồng mua bán căn hộ số 136 PM/HĐMB/2010 ngày 12/07/2010 và Phụ lục hợp đồng số 77PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011 có hiệu lực pháp luật.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Công ty P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ số 136 PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010 được ký kết giữa Công ty P với ông Lý C; buộc ông Lý C hoàn trả cho Công ty P căn hộ số D4-1, Tầng 04, chung cư M, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương và tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp ngày 15/10/2014 do ông Lý C đứng tên giấy chứng. Công ty P đồng ý trả lại cho ông C số tiền 17.606.543 đồng sau khi đã khấu trừ chi phí hoạt động hành chính và tiền phạt vi phạm hợp đồng.
Xét thấy, trong quá trình tố tụng, ông C đã được Tòa án tống đạt các Văn bản tố tụng theo quy định pháp luật, nhưng vẫn cố tình vắng mặt, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh phản đối lại đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, do Tòa án thu thập có được trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo quy định pháp luật.
Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 12/07/2010, Công ty P và ông Lý C ký Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010. Theo đó, Công ty P chuyển nhượng cho ông C căn hộ số D4-1, Tầng số 4, diện tích là 55.5 m2 với giá 203.962.500 đồng. Theo quy định tại Điều 4 của Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010, các bên thỏa thuận nghĩa vụ thanh toán như sau: Đợt 1, thanh toán 30% ngay sau khi ký kết hợp đồng; đợt 2, thanh toán 65% trong vòng 30 ngày kể từ ngày thanh toán xong đợt 1; đợt cuối, thanh toán 5% trước hoặc ngay vào ngày bên ông C nhận giấy biên nhận hồ sơ làm thủ tục sở hữu căn hộ. Tuy nhiên, ông C chỉ thanh toán được đợt 1 cho Công ty P với số tiền là 78.795.293 đồng. Đến ngày 08/4/2011, giữa Công ty P với ông C thỏa thuận ký kết Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011; theo đó, tại Điều 1 của Phụ lục hợp đồng thì hình thức thanh toán được sửa đổi so với Hợp đồng số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/07/2010 như sau: Đợt 1, ông C thanh toán cho Công ty P 30% tổng giá trị hợp đồng tương đương số tiền 61.200.000 đồng; đợt 02, thanh toán cho Công ty P 70% tổng giá trị hợp đồng tương đương số tiền 142.762.500 đồng bằng hình thức trả góp trong vòng 10 năm với lãi suất trả góp là 17,5%/năm và được tính trên số dư nợ giảm dần theo bảng hỗ trợ cách tính trả góp có lãi suất kèm theo phụ lục hợp đồng. Sau khi thỏa thuận lại phương thức thanh toán, ông C vẫn không thanh toán thêm khoản tiền nào cho Công ty P, là vi phạm điều khoản thỏa thuận về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng.
Về phía Công ty P, mặc dù ông Lý C vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nhưng để hoàn thành nghĩa vụ của phía bên chuyển nhượng, Công ty P đã tiến hành hoàn thành thủ tục sang tên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông C. Ngày 15/10/2014, ông C đã được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) C, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 đối với căn hộ D4-1, Tầng 4 Chung cư M, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương thuộc thửa số 909, tờ bản đồ số 16. Tuy nhiên, căn hộ hộ D4-8, Tầng 4, Lô D Công ty P chưa tiến hành bàn giao cho ông Lý C là do ông C chưa thanh toán đủ 95% theo thỏa thuận tại mục 5.1 Điều 5 của Hợp đồng.
Từ các căn cứ trên, có cơ sở xác định ông C đã vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Căn cứ vào Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2005, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty P, cần tuyên hủy Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/07/2010, Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/04/2011 ký kết giữa Công ty P với ông Lý C. Buộc Công ty P có nghĩa vụ hoàn trả cho ông C số tiền gốc ông C đã thanh toán là 78.795.293 đồng; Công ty P được quyền sở hữu, sử dụng căn hộ D4-1, Tầng 4 Chung cư M, phường H, thị C, tỉnh Bình Dương, thuộc thửa số 909, tờ bản đồ số 16, tọa lạc phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương.
Xét về lỗi; quyền lợi và nghĩa vụ của các bên về việc Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010, Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/04/2011 bị hủy: Việc hủy Hợp đồng số 136 PM/HĐMB/2010 ngày 12/07/2010, Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011 là do lỗi của ông Lý Mảnh Chung do vi phạm nghĩa vụ thanh toán; còn Công ty P, mặc dù trong hợp đồng không có thỏa thuận ràng buộc về việc thông báo cho ông C về nghĩa vụ thanh toán tiền, nhưng từ thời điểm ký kết hợp đồng năm 2010 cho đến nay, Công ty P không xúc tiến trong việc yêu cầu ông C thanh toán tiền và theo các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, Công ty P có ban hành Thông báo thanh toán (lần 1) số 315/TBTT-BPTHCN ngày 27/09/2012; Thông báo thanh toán số 388/TBTT-BPTHCN ngày 27/09/2012; Thông báo về việc thanh toán nợ quá hạn (lần 01) số 554/TB-KDPT ngày 20/04/2016; Thông báo về việc thanh toán nợ quá hạn (lần 02) số 721/TB-KDPT ngày 09/06/2016; Thông báo về việc thanh toán nợ quá hạn số 274/TB-KDPT ngày 20/03/2017; Thông báo về việc thanh toán nợ quá hạn số 523/TB-KDPT ngày 04/05/2017 để yêu cầu ông C thực hiện thanh toán theo thỏa thuận và Thông báo số 819/TB-KDPT ngày 10/07/2018 về việc giải quyết thanh lý theo Điều 02 khoản 2.3 của Phụ lục hợp đòng; Thông báo về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với ông Lý C số 280/TB-KDPT ngày 27/03/2019; tuy nhiên, không có tài liệu, chứng cứ chứng minh rằng Công ty P đã gửi các thông báo này cho bông Chung, nên Công ty cũng có một phần lỗi trong việc kéo dài quá trình thực hiện hợp đồng và làm cho hợp đồng không thể thực hiện theo thỏa thuận.
Nay để đảm bảo lợi ích cho các bên khi hủy hợp đồng, cần xem xét đến giá trị chênh lệch căn hộ tại thời điểm xét xử tương ứng với giá trị căn hộ ông Chung đã thanh toán trước đó, được tính cụ thể như sau:
Diện tích căn hộ chuyển nhượng là 55,5 m2, giá chuyển nhượng là 203.962.500 đồng, tương đương giá x 3.675.000/01 m2.
Ông C đã thanh toán cho Công ty là 78.795.293 đồng, tương ứng với phần diện tích căn hộ chuyển nhượng là 21,44m2.
Giá căn hộ tại thời điểm xét xử được thể hiện tại Biên bản định giá ngày 20/8/2020 của Hội đồng định giá thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương là 320.000.000 đồng tương ứng đơn giá 5.765.765 đồng/01m2, nên giá trị hiện tại của phần diện tích đất 21,4 m2 là 123.387.371 đồng.
Tiền chênh lệch là: 123.387.371 đồng - 78.795.293 đồng = 44.592.078 đồng.
Xét thấy, việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh đã thay đổi cơ bản theo quy định tại Điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015, nay để cân bằng quyền lợi, nghĩa vụ của các bên, Hội đồng xét xử không buộc ông C bồi thường số tiền 44.592.078 đồng cho Công ty P là phù hợp theo quy định pháp luật.
[4] Đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp ngày 15/10/2014 do ông Lý C đứng tên giấy chứng: Việc Uỷ ban nhân dân huyện (nay là thị xã) C, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp ngày 15/10/2014 do ông Lý Mảnh Chung đứng tên giấy chứng là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tại Điều 127 Luật đất đai năm 2003 và Điều 148 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ. Do đó, nguyên đơn yêu cầu yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp ngày 15/10/2014 do ông Lý C đứng tên giấy chứng nhận là không có cơ sở chấp nhận; Hội đồng xét xử xét thấy chỉ cần kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương thu hồi giấy chứng nhận.
[5] Về chi phí chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản; phí trích lục hồ sơ: Căn cứ vào các Điều 157, 158, 165 và Điều 166 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn ông C phải chịu tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản; phí trích lục lục hồ sơ được thể hiện tại Biên bản quyết toán ngày 22 tháng 4 năm 2021 (bút lục số 94) với số tiền 1.860.000 đồng, số tiền này ông C có nghĩa vụ hoàn trả lại cho nguyên đơn Công ty P. [6] Về tiền án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Lý C phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[7] Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 157, 158, 165, 166, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty P đối với bị đơn ông Lý C;
- Tuyên hủy hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/07/2010 và Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/04/2011 được ký kết giữa Công ty P với ông Lý C.
- Buộc Công ty P có nghĩa vụ trả lại cho ông Lý C số tiền: 78.795.293 (bảy mươi tám triệu, bảy trăm chín mươi lăm nghìn, hai trăm chín mươi ba) đồng.
- Công ty P được quyền sở hữu, sử dụng căn hộ D4-1, Tầng 4, Chung cư M, thuộc thửa số 909, tờ bản đồ số 16, tọa lạc phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương.
(Có kèm theo sơ đồ vị trí, diện tích sàn sử dụng).
Kể từ khi Bản có có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiển, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty P về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp ngày 15/10/2014 do ông Lý C đứng tên giấy chứng nhận.
3. Kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp ngày 15/10/2014 do ông Lý C đứng tên giấy chứng nhận đối với căn hộ số D4-1, Tầng 4 Chung cư M, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương.
4. Về chi phí chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản; phí trích lục hồ sơ: Ông Lý C phải chịu tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, phí trích lục hồ sơ được thể hiện tại Biên bản quyết toán ngày ngày 22 tháng 4năm 2021 (bút lục số 94) với số tiền 1.860.000 (một triệu, tám trăm sáu mươi nghìn) đồng, số tiền này ông Lý C có nghĩa vụ hoàn trả lại cho nguyên đơn Công ty P.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Lý C phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Nguyên đơn Công ty P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty P số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tại Biên lai thu số AA/2016/0047613 ngày 05/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C, tỉnh Bình Dương.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà số 29/2021/DS-ST
Số hiệu: | 29/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về