Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng góp hụi và kiện đòi tài sản số 45a/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 45A/2022/DS-PT NGÀY 18/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN, HỢP ĐỒNG GÓP HỤI VÀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 145/2021/TLPT-DS ngày 08 tháng 7 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng góp hụi và kiện đòi tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 63/2021/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố X., tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 145/2021/QĐ-PT ngày 06 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2022/QĐ-PT ngày 28 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị T., sinh năm 1961; nơi cư trú: Số 31/15, khóm H1., phường M., thành phố X., tỉnh An Giang (có mặt).

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Trần Văn N. là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trần Văn N. thuộc đoàn Luật sư tỉnh An Giang (vắng mặt – có gửi Bản luận cứ)

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ L., sinh năm 1964; nơi cư trú: Số 69/15B, khóm H1., phường M., thành phố X., tỉnh An Giang (có mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Anh Phạm Tiến D., sinh năm 1986; nơi cư trú: Số 67/35, khóm Th., phường M., thành phố X., tỉnh An Giang (có mặt).

3.2. Ông Phạm Thiên H., sinh năm 1961; nơi cư trú: Số 69/15B, khóm H1., phường M., thành phố X., tỉnh An Giang (có mặt).

4. Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L..

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm, bà Trương Thị T. trình bày:

Vào khoảng tháng 4 năm 2018, bà Nguyễn Thị Mỹ L. cất nhà thiếu vốn nên có nhờ bà T. bảo lãnh mua vật liệu xây dựng cát, đá, xi măng, sắt,... tại cửa hàng của anh Phạm Tiến D., do bà L. năn nỉ nên bà T. nhận lời và đứng ra bảo lãnh cho bà L. mua vật tư xây nhà, hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng, không làm giấy tờ. Sau khi thỏa thuận, thì bà L. lấy vật liệu xây dựng của anh D., nhưng khi nhà xây xong thì bà L. không trả tiền cho anh D. nên bà T. đã đứng ra trả cho anh D. tổng cộng 100.000.000 đồng mà bà L. còn nợ. Sau đó, bà L. đã trả được 40.000.000 đồng, còn nợ lại 60.000.000 đồng. Ngoài ra, bà L. còn nợ tiền hụi của bà T. là 20.000.000 đồng. Do đó yêu cầu bà L. trả cho bà T. tổng cộng 80.000.000 đồng (trong đó, tiền mua vật tư xây dựng là 60.000.000 đồng, tiền hụi là 20.000.000 đồng).

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T. rút lại 01 phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bà L. trả 54.000.000 đồng, trong đó tiền nợ vật tư 34.000.000 đồng và nợ tiền hụi 20.000.000 đồng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L. trình bày:

Bà với bà Trương Thị T. không bà con họ hàng, quen biết nhau do sống cùng xóm. Trước đây, gia đình bà T. có bán vật liệu xây dựng. Vào ngày 8/10/2018 âm lịch, bà có xây nhà và mua vật tư xây dựng của bà T., việc mua bán trên cơ sở thỏa thuận miệng, giao nhận vật tư 01 tuần trả tiền 01 lần. Tổng cộng mua vật tư của bà T. là 86.000.000 đồng; đã trả 60.000.000 đồng (cụ thể, lần 1 trừ 10.000.000 đồng bà T. ứng trước đó, lần 2 do bà T. nhận 40.000.000 đồng (không nhớ thời gian), lần 3 nhận 10.000.000 đồng nhưng không nhớ thời gian). Sau đó, hai bên ngồi lại thanh toán tiền vật tư và xác nhận bà còn nợ bà T. tiền vật tư xây dựng là 26.000.000 đồng. Bà là người trực tiếp trả tiền, bà T. là người trực tiếp nhận tiền, việc giao nhận tiền không làm giấy tờ, không ai chứng kiến và hai bên ngồi lại xác nhận nợ cũng không ai biết chứng kiến. Mục đích cất nhà để vợ chồng ở, việc nợ tiền vật tư của bà T., chồng bà ông Phạm Thiên H. không biết. Bà không nợ tiền vật tư xây dựng của bà T. 100.000.000 đồng như bà T. trình bày.

Về tiền hụi: Bà là chủ hụi và bà T. là hụi viên tham gia dây hụi 2.000.000 đồng, có 12 phần, khui vào ngày 18/11/2017 âm lịch, mãn hụi ngày 18/11/2018, bà T. là người hốt hụi áp chót (lần thứ 11) được 20.800.000 đồng (trừ tiền huê hồng 1.000.000 đồng), bà T. thực nhận là 20.800.000 đồng. Bà T. là người trực tiếp nhận đủ tiền hụi 20.800.000 đồng, bà L. là người trực tiếp giao tiền hụi, việc giao nhận tiền hai bên không làm biên nhận cũng không ai biết chứng kiến.

Từ trước đến nay, bà là người trực tiếp giao dịch, mua bán, tham gia hụi với bà T. chứ không lần nào tham gia giao dịch mua bán hoặc tham gia hụi với anh Phạm Tiến D. và không nợ tiền gì của anh D.. Do đó, đồng ý với tư cách cá nhân trả cho bà T. tiền còn nợ là 26.000.000 đồng như trình bày trên; việc này không liên quan gì đến chồng của bà, không đồng ý trả theo yêu cầu khởi kiện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phạm Tiến D. trình bày:

Anh là con ruột bà Trương Thị T., không bà con họ hàng với bà Nguyễn Thị Mỹ L.. Anh là chủ cửa hàng vật liệu xây dựng Tiến D. tọa lạc tại số 67/35, khóm Th., phường M., thành phố X., tỉnh An Giang. Vào khoảng năm 2018 (không nhớ thời gian cụ thể), bà L. cất nhà, có nhờ mẹ T. mua vật liệu xây dựng với hình thức cất nhà xong sẽ trả, vì làm con sợ mẹ buồn nên đồng ý giao vật liệu xây dựng cho bà L.. Anh với bà L. không trực tiếp giao dịch mua bán, mà tất cả mọi việc bà L. đều thông qua mẹ của anh để lấy vật tư. Sau khi bà L. cất nhà xong thì không thấy bà đến trả tiền, nên có hỏi mẹ kêu bà L. trả tiền, tổng tiền vật tư mà bà L. còn nợ là 100.000.000 đồng, do cần vốn xoay để phục vụ kinh doanh nên mẹ anh đã xuất tiền trả đủ. Nay không còn liên quan gì trong vụ án, còn việc giữa bà L. và mẹ anh giải quyết như thế nào, anh không biết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thiên H. trình bày: Ông là chồng của bà Nguyễn Thị Mỹ L., không bà còn họ hàng với bà Trương Thị T.. Ông có ý kiến như sau:

- Về tiền mua vật liệu xây dựng: Vào khoảng năm 2018, vợ chồng ông có xây nhà, mọi chi phí xây dựng giao cho vợ quán xuyến, mua vật liệu và đứng trông coi xây dựng. Vào thời điểm đó, ông biết vợ mua vật tư do bà T. giao (còn việc bà T. lấy vật tư của ai thì không biết), thỏa thuận mua bán giữa bà T. với vợ thế nào thì ông không biết. Tổng chi phí cất nhà và nợ bà T. bao nhiêu cũng không biết; sau này xảy ra tranh chấp, Ban khóm mời hòa giải mới biết sự việc và tại Ban khóm, vợ ông khai chỉ nợ bà T. tổng tiền vật tư là 26.000.000 đồng nên biết còn nợ bà T. 26.000.000 đồng. Xác định, ngoài việc mua vật tư cất nhà cho vợ chồng thì vợ ông không mua vật tư giùm để cất nhà cho ai khác. Nay đồng ý cùng vợ chịu trách nhiệm liên đới trả tiền vật liệu xây dựng còn nợ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, không biết gì khác.

- Về tiền hụi: Trước đây bà T. có tham gia chơi hụi do vợ ông làm chủ, còn cụ thể thế nào thì không biết; ông không đồng ý trả tiền nợ hụi vì theo như lời trình bày của vợ ông thì không còn nợ tiền hụi của bà T..

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 63/2021/DS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố X. tuyên xử:

- Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị T. đối với bà Nguyễn Thị Mỹ L. về việc trả tiền mua vật tư xây dựng và tiền góp hụi còn nợ.

- Tuyên buộc bà Nguyễn Thị Mỹ L. có trách nhiệm trả cho bà Trương Thị T. tổng cộng 54.000.000 đồng (năm mươi bốn triệu đồng). Trong đó, tiền vật tư xây dựng là 34.000.000 đồng (ba mươi bốn triệu đồng) và tiền góp hụi là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Đình chỉ xét xử phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị T. đối với bà Nguyễn Thị Mỹ L., số tiền 26.000.000 đồng tiền vật tư xây dựng Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử, ngày 06/4/2021 bà Nguyễn Thị Mỹ L. có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn bà Trương Thị T.: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Mỹ L., giữ nguyên bản án sơ thẩm; buộc bà Nguyễn Thị Mỹ L. có nghĩa vụ trả cho bà tiền mua vật tư xây dựng và tiền góp hụi còn nợ.

Luật sư Trần Văn N. - người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Trương Thị T. vắng mặt nhưng có Bản luận cứ trình bày: Anh Phạm Tiến D. là chủ doanh nghiệp mua bán vật tư xây dựng, do bà L. không sòng phẳng trong việc thanh toán tiền mua vật tư nên anh D. không bán. Do vậy, bà T. đã đứng ra lấy vật tư của anh D. và mua thêm bên ngoài giao cho bà L. để hoàn thiện việc cất nhà. Sau khi cất nhà xong, bà L. còn nợ 60.000.000 đồng. Ngoài ra, bà T. còn tham gia chơi hụi do bà L. làm chủ, bà L. đã giao được 800.000 đồng, còn nợ lại 20.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, do không đủ chứng cứ nên bà T. đã rút lại một phần yêu cầu khởi kiện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T., buộc bà L. trả cho bà T. tổng cộng 54.000.000 đồng (gồm 34.000.000 đồng tiền vật tư và 20.000.000 đồng tiền hụi). Việc bà L. kháng cáo cho rằng đã trả đủ nhưng không có chứng cứ gì chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà L., giữ y bản án sơ thẩm.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L.: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bà cho rằng đã trả cho bà T. 60.000.000 đồng tiền vật tư, chỉ còn nợ lại 26.000.000 đồng. Còn về tiền hụi 21.800.000 đồng, sau khi trừ tiền huê hồng còn lại 20.800.000 đồng bà đã giao đủ cho bà T. nên không đồng ý trả theo yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung vụ án:

+ Về tiền mua vật tư: Bà T. cho rằng bà L. mua vật tư 120.000.000 đồng nhưng bà L. chỉ thừa nhận mua 86.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm bà T. rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bà L. trả số tiền 34.000.000 đồng tiền vật tư mà bà L. đã ký nhận. Tòa sơ thẩm đã đình chỉ việc rút một phần yêu cầu của bà T. là có căn cứ.

+ Về tiền hụi: Bà T. cho rằng bà L. chỉ đưa 800.000 đồng, còn nợ 20.000.000 đồng; bà L. thì khai đã giao đủ 20.800.000 đồng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên Tòa sơ thẩm buộc bà L. có trách nhiệm trả cho bà T. số tiền hụi 20.000.000 đồng là có cơ sở.

Bà L. kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bà Nguyễn Thị Mỹ L. kháng cáo trong hạn luật định và có nộp tạm ứng án phí đầy đủ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp: Bà Trương Thị T. khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Mỹ L. trả 54.000.000 đồng tiền nợ vật tư xây dựng và tiền hụi. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Phạm Tiến D. và bà Trương Thị T. đều thừa nhận, số tiền vật tư xây dựng bà Nguyễn Thị Mỹ L. còn nợ của bà T. bao gồm tiền vật tư do bà T. trực tiếp bán và tiền vật tư do anh D. con bà T. bán nhưng bà T. đã thay bà L. trả cho anh D.. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng mua bán”, “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” và “Kiện đòi tài sản” là phù hợp.

[1.3] Tại phiên tòa sơ thẩm: Bà Trương Thị T. rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 26.000.000 đồng tiền nợ vật tư. Xét đây là sự tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này là phù hợp và các đương sự không có kháng cáo nên đã có hiệu lực pháp luật.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Về số tiền nợ vật tư xây dựng: Nguyên đơn và bị đơn thống nhất xác định vào khoảng tháng 4 năm 2018 bà T. có giao cho bà L. vật tư xây dựng nhà nhưng các bên không thống nhất số tiền vật tư đã giao nhận. Bà L. thừa nhận tổng số tiền vật tư đã mua là 86.000.000 đồng, trả được 60.000.000 đồng nhưng bà L. chỉ chứng minh được 40.000.000 đồng trên cơ sở thừa nhận của bà T.. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm bà T. rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bà L. trả 34.000.000 đồng. Đây là ý chí tự nguyện, tự định đoạt của bà T., không trái quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội, có lợi cho bà L. do đó cấp sơ thẩm chấp nhận buộc bà L. có nghĩa vụ trả 34.000.000 đồng(1) là có cơ sở, đúng pháp luật.

[2.2] Về số tiền nợ hụi: Bà T. và bà L. cùng thống nhất xác định, bà T. có tham gia dây hụi 2.000.000 đồng do bà L. làm chủ và bà T. đã hốt hụi được 20.800.000 đồng (đã trừ tiền huê hồng 1.000.000 đồng). Tuy nhiên, bà T. cho rằng sau khi hốt hụi thì bà L. chỉ đưa 800.000 đồng, còn nợ 20.000.000 đồng; trong khi bà L. cho rằng đã giao đủ một lần tiền hụi cho bà T.. Hội đồng xét xử nhận thấy, căn cứ vào thói quen, tập quán trong việc tham gia, tổ chức góp hụi tại địa phương thì khi chủ hụi giao tiền hụi sẽ cho hụi viên ký nhận số tiền hụi được hốt vào sổ sách hoặc biên nhận nhưng bà L. không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bà L. cũng thừa nhận các hụi viên khác đều có chứng kiến việc bà T. có tham gia chơi hụi, có hốt hụi nhưng khi bà giao số tiền hụi hốt được cho bà T. thì không có bất kỳ hụi viên nào chứng kiến. Do đó, cấp sơ thẩm chấp nhận buộc bà L. có nghĩa vụ trả cho bà T. 20.800.000 đồng(2) là có cơ sở, phù hợp quy định pháp luật.

[2.3] Về nghĩa vụ liên đới: Ông Phạm Thiên H. (chồng bà L.) đồng ý cùng chịu trách nhiệm trả nợ cho bà T.. Tuy nhiên, cả nguyên đơn và bị đơn đều không yêu cầu ông Hải có trách nhiệm liên đới nên cấp sơ thẩm không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[2.4] Như vậy, tổng cộng số tiền mà bà L. có trách nhiệm trả cho bà T. là = (1) + (2) = 34.000.000 đồng + 20.800.000 đồng = 54.800.000 đồng [3] Từ những phân tích trên cho thấy, cấp sơ thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị T. là có căn cứ. Bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L. kháng cáo nhưng tại phiên tòa hôm nay cũng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn; chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Mỹ L. phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L.. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2021/DS-ST ngày 06/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố X., tỉnh An Giang.

Căn cứ vào các Điều 274, Điều 275, Điều 440, Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị T. đối với bà Nguyễn Thị Mỹ L.. Buộc bà Nguyễn Thị Mỹ L. có trách nhiệm trả cho bà Trương Thị T. tổng cộng 54.000.000 đồng (năm mươi bốn triệu đồng).

2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị T. buộc bà Nguyễn Thị Mỹ L. trả số tiền 26.000.000 đồng tiền vật tư xây dựng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành đầy đủ khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Mỹ L. phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002847 ngày 11/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X..

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và Điều 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 luật thi hành dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng góp hụi và kiện đòi tài sản số 45a/2022/DS-PT

Số hiệu:45a/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về