Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 10/2022/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 10/2022/KDTM-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 31 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/2023/TLST-KDTM ngày 17 tháng 5 năm 2023 về việc “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 344/2023/QĐXXST-KDTM ngày 26 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Điện máy C.

Địa chỉ: Đường số 6 Khu dân cư T, Khu vực T, phường T, quận C, thành phố C.

Đại diện hợp pháp: Bà Lê Thị Mai L.

(Văn bản ủy quyền ngày 28/3/2023).

Bị đơn: Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thiết kế N.

Địa chỉ: Đường số 11 Khu dân cư L, phường P, quận C, thành phố C.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu Duy Ngọc Ng (Vắng mặt). Chức vụ: Giám đốc Công ty.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Điện máy C (say đây gọi tắt là Công ty Điện máy C) trình bày: Ngày 25/3/2022 Công ty Điện máy C ký kết với Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thiết kế N (sau đây gọi tắt là Công ty N) Hợp đồng mua bán số 79- 2022/HDMB/ĐMCT cung cấp các mặt hàng máy điều hòa hiệu Dakin với tổng giá trị 223.545.000 đồng. Công ty Điện máy C đã hoàn thành lắp đặt nhưng Công ty N không thanh toán tiền hàng. Ngày 06/6/2022 Công ty đã gửi đề nghị thanh toán nhưng vẫn không được. Sau nhiều lần đề nghị, ngày 08/12/2022 Giám đốc Công ty N cam kết thời gian thanh toán và qua nhiều lần thanh toán, số tiền còn lại 74.515.000 đồng đến nay chưa trả. Ngày 26/12/2022 và ngày 03/01/2023 Công ty tiếp tục gửi đề nghị thanh toán nhưng vẫn không được.

Công ty Điện máy C khởi kiện yêu cầu Công ty N thanh toán tiền hàng còn lại 74.515.000 đồng và lãi suất 10%/năm từ ngày 27/4/2022 đến ngày 30/3/2023. Tổng số tiền phải trả là 81.345.000 đồng và tiếp tục trả lãi cho đến khi hết nợ.

Bị đơn Công ty N: Vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không ghi nhận được lời khai.

Diễn biến tại phiên tòa, Công ty Điện máy C giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu trả lãi 10%/năm từ ngày 05/5/2022 đến ngày xét xử 31/8/2023. Công ty N vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về tố tụng, Tòa thụ lý đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng tư cách đương sự, thu thập chứng cứ, hòa giải đúng luật định, không vi phạm thời hạn đưa vụ án ra xét xử.

Về nội dung: Qua trình bày cùng chứng cứ có trong hồ sơ thấy rằng Công ty N đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền hợp đồng mua hàng hóa nên Công ty phải có nghĩa vụ trả số tiền còn lại và tiền lãi chậm trả cho Công ty Điện máy C. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu của Công ty Điện máy C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Theo đơn khởi kiện và các chứng cứ được thu thập, thẩm tra xác định các đương sự tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa được Tòa án thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Khoản 1 Điều 30, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 3 Điều 317 Luật Thương mại.

[2] Mặc dù Công ty N vắng mặt không ghi nhận được lời khai nhưng qua các văn bản Công ty Điện máy C cung cấp chứng minh được hai Công ty có mối quan hệ mua – bán sản phẩm máy lạnh với tổng giá trị 223.545.000 đồng. Công ty Điện máy đã giao hàng, Công ty N đã nhận hàng. Các văn bản mà Công ty Điện máy C phát hành cho Công ty N và cung cấp cho Tòa án được xác định là chứng cứ theo quy định tại Điều 93, Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự chứng minh cho việc thanh toán tiền hàng của Công ty N. Căn cứ Thông báo ngày 03/01/2023 Công ty Điện máy C phát hành chứng minh được Công ty N chưa thanh toán tiền hàng còn lại 74.515.000 đồng. Do đó, Công ty N đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán của một bên trong hợp đồng được quy định tại Điều 280 Bộ luật Dân sự nên theo quy định tại Điều 351 Bộ luật Dân sự Công ty N phải có nghĩa vụ trả số tiền trên cho Công ty Điện máy C. Tiền lãi chậm trả Công ty Điện máy C yêu cầu Công ty N phải trả 10%/năm tính từ ngày 05/5/2022 đến ngày 31/8/2023 là 01 năm 3 tháng 27 ngày với số tiền lãi 9.873.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự. Do đó, toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty Điện máy xanh là có căn cứ chấp nhận.

[4] Trường hợp Công ty N chậm trả tiền kể từ khi Công ty Điện máy C có đơn yêu cầu thi hành án thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

[5] Căn cứ quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự Công ty N phải chịu 4.940.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Điện máy C được nhận lại tiền tạm ứng đã nộp 3.000.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003153 ngày 15/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận C.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 30, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 93, Điều 95, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Các Điều 280, 351, 357, 468 Bộ luật Dân sự.

Khoản 3 Điều 317 Luật Thương mại.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Điện máy C.

Buộc Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thiết kế N phải trả cho Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Điện máy C tổng số tiền nợ 84.388.000 đồng.

Kể từ khi Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Điện máy C có đơn yêu cầu thi hành án mà Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thiết kế N chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

Về án phí: Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thiết kế N phải chịu 4.940.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Điện máy C được nhận lại tiền tạm ứng đã nộp 3.000.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003153 ngày 15/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận C.

Về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 10/2022/KDTM-ST

Số hiệu:10/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về