Bản án về tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền lương số 02/2022/LĐPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 02/2022/LĐPT NGÀY 12/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ ĐÒI TIỀN LƯƠNG

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ mở phiên tòa công khai tại trụ sở để xét xử phúc thẩm vụ án lao động thụ lý số: 03/2022/TLPT-LĐ ngày 04/7/2022 về tranh chấp “Hợp đồng lao động và đòi tiền lương" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/QĐPT- LĐ ngày 13/7/2022.

Do bản án sơ thẩm 04/2022/LĐST ngày 25/4/2022 của TAND quận C xét xử sơ thẩm có kháng cáo, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn Ông Nguyễn Ngọc H; sinh năm: 1985. Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ.

Đại diện ủy quyền: ông Nguyễn Châu Chí C; sinh năm: 1982. Địa chỉ: đường L, Khu vực M, phường C, quận O, thành phố Cần Thơ (văn bản ủy quyền ngày 14/4/2022). Có mặt.

* Bị đơn Công ty Cổ phần Nhựa T. Địa chỉ: đường H, khu vực T, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.

Đại diện diện ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H; sinh năm: 1962. Địa chỉ: đường B phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (văn bản ủy quyền ngày 15/7/2022). Có mặt.

Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 08/4/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Nguyễn Ngọc H trình bày:

Trước đây, bà Đồng Thị Thu H là giám đốc Công ty Cổ phần Nhựa T có gặp ông và mời ông làm quản lý cho công ty của bà. Ông bắt đầu nhận công việc vào tháng 10/2016 (không nhớ rõ ngày cụ thể).

Ngày 07/01/2017, ông và Công ty Cổ phần Nhựa T ký kết hợp đồng lao động. Hợp đồng không thỏa thuận thời hạn. Công việc của ông là làm quản lý, điều hành công ty (công ty trên có bà H là giám đốc, còn dưới là ông). Thỏa thuận tiền lương hàng tháng 13.500.000đ + phụ cấp tiền ăn và các chi phí khác là 3.000.000đ/tháng. Hợp đồng do ông soạn sẵn và bà H ký tên, đóng dấu; tuy nhiên, do ông sơ suất nên ghi thời hạn hiệu lực hợp đồng là ngày 01/02/2018 nhưng thực tế ông làm việc cho bà H từ tháng 10/2016 khi Công ty còn ở Quốc lộ 1 là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhựa P.

Vào thời điểm đó, do bà H mới mua lại công ty của người khác nên còn khó khăn; vì vậy, bà H và ông thỏa thuận miệng hàng tháng bà H chỉ hỗ trợ tiền ăn, ở là 3.000.000đ/tháng. Khi nào công ty đi vào hoạt động sẽ trả đủ tiền lương một lần cho ông.

Khi Công ty của bà H đi vào hoạt động ổn định thì bà H kiếm chuyện với ông và đuổi việc ông.

Ông đã làm việc từ tháng 10/2016 đến ngày 24/10/2018 là 24 tháng, ông làm việc cho công ty và ở lại công ty 24/24 giờ nhưng bà H chỉ trả cho ông phụ cấp tiền ăn là 3.000.000đ/tháng x 24 tháng = 72.000.000đ; bà H không có trả lương cho ông. Tuy nhiên, ông đồng ý trừ khoản phụ cấp đã nhận vào lương, xem như bà H còn thiếu lại ông 19 tháng tiền lương x 13.500.000đ = 256.500.000đ nên nay ông yêu cầu Công ty phải trả tiền lương còn thiếu cho ông.

Bị đơn là Công ty Cổ phần Nhựa T cho rằng: Bà Đồng Thị Thu H là Giám đốc Công ty Cổ phần Nhựa T. Giữa ông H và công ty không có ký hợp đồng lao động nào. Ông H cũng không có làm việc cho công ty.

Năm 2016, bà Đồng Thị Thu H chỉ thuê ông H ngủ giữ vật tư xây nhà kho vào ban đêm, trả tiền lương công nhật (làm ngày nào trả lương ngày đó). Tiền lương làm đủ 30 ngày, bà H trả cho ông H 3.000.000đ, vì ban ngày ông H đi làm ở đâu bà H không biết, ban đêm ông H mới ngủ giữ vật tư cho bà Hồng. Do bà H thuê công nhật với tư cách cá nhân, không có sổ sách theo dõi nên bà H không nhớ là đã trả lương cho ông H bao nhiêu. Khi xây xong nhà kho vào khoảng tháng 6/2017, bà H không thuê ông H nữa.

Sau thời gian nghỉ việc, vào khoảng tháng 3-4 năm 2018, ông H có đến gặp bà H để nhờ ký Hợp đồng lao động có mức lương để vay tiền Ngân hàng. Vì tình nghĩa trước đây Hiếu đã làm việc cho bà Hồng; bên cạnh đó, thấy hoàn cảnh ông H khó khăn nên bà H ký cho ông H cung cấp cho Ngân hàng để vay tiền. Hợp đồng lao động bà H ký cho ông H là do ông H soạn sẵn, việc ký hợp đồng chỉ để hợp thức hóa cho việc vay vốn Ngân hàng cho ông H với Ngân hàng.

Hợp đồng ngày 07/01/2017 ghi Hợp đồng có hiệu lực kể từ 01/02/2018 nhưng ông H đã nghỉ việc từ 2017 nên Hợp đồng này không có giá trị.

Ngoài ra, ông Nguyễn Ngọc H không có tên trong danh sách Bảng lương của Công ty. Mẫu Hợp đồng lao động ngày 07/01/2017 không đồng nhất với mẫu Hợp đồng lao động của các nhân viên làm việc tại Công ty T, hợp đồng này không có logo của Công ty phía bên trái, logo này Công ty đã đăng ký độc quyền.

Trong quá trình thành lập đầu tiên, Công ty đăng ký kinh doanh dưới hình thức Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T. Sau đó, Công ty chuyển đổi thành Công ty Cổ phần Nhựa T được cấp giấy phép hoạt động vào 10/01/2018.

Vào thời điểm trước năm 2017 thì công ty chưa có hoạt động. Do đó, bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại bản án sơ thẩm số 03/2019/LĐST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc H.

Buộc bị đơn Công ty Cổ phần Nhựa T phải thanh toán số tiền 67.500.000đ.

Lãi suất chậm thanh toán theo Điều 357 Bộ luật dân sự.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo qui định.

Ngày 13/12/ 2019 Viện kiểm sát nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ đã kháng nghị bản án nêu trên theo trình tự phúc thẩm. Bị đơn có kháng cáo.

* Tại bản án phúc thẩm số 02/2020/LĐPT ngày 31/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ tuyên xử:

- Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân quận C.

- Huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm của tòa án nhân dân quận C, giao hồ sơ về toà án cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung.

Ngày 21/10/2020 Toà án nhân dân quận C thụ lý sơ thẩm lại vụ án.

Tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ 2:

Đại diện nguyên đơn là ông Nguyễn Châu Chí C cho rằng:

Ông H làm việc cho bị đơn từ tháng 10/2016 đến ngày 24/10/2018, công việc của ông H là quản lý toàn phần cho Công ty, giống như một Giám đốc của Công ty. Tuy nhiên, ông H và bà H chỉ thỏa thuận miệng về mức lương, không có quyết định bổ nhiệm, cũng như không có ký hợp đồng lao động bằng văn bản; mỗi tháng bà H hỗ trợ tiền ăn cho ông H là 3.000.000đ/tháng nhưng bà H có hứa miệng với ông H là sẽ trả lương cho ông H mức lương 13.500.000đ/tháng.

Do ông H khó khăn, không đủ chi phí sinh hoạt nên muốn đảm bảo quyền lợi của mình như bà H đã hứa ban đầu; vì vậy, ngày 07/01/2017, ông H soạn sẵn Hợp đồng lao động bằng văn bản cho bà H ký nhưng lâu sau đó (không rõ thời gian nào) bà H mới trả lại Hợp đồng đã ký cho ông H. Việc Hợp đồng lập ngày 07/01/2017 nhưng hiệu lực hợp đồng từ ngày 01/02/2018 là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 23 Bộ luật Lao động quy định cho phép người sử dụng lao động được ký hợp đồng lao động trước khi thành lập công ty. Còn việc thành lập tên Công ty và con dấu Công ty ở giai đoạn nào, chức vụ của lãnh đạo công ty, tiền lương công ty trả cho nhân viên từ đâu thì ông H không thể nắm được vì những việc này không nằm trong phạm vi của người lao động.

Tại thời điểm ông H làm việc ở Công ty của bà H thì trong công ty không có nhiều lao động, chỉ có khoảng 05 người làm những công việc đơn giản và những người này cũng không có ký hợp đồng lao động bằng văn bản; quá trình giải quyết vụ án sơ thẩm vào năm 2019 trước đây, Tòa án đã lấy lời khai của những người này. Ngoài ra, theo Biên bản về việc nghiệm thu đóng điện công trình cho Công ty Cổ phần Nhựa T vào tháng 7/2018 thì ông H ký đại diện Chủ đầu tư với chức danh Phó Giám đốc Công ty; tuy ông H không có Quyết định bổ nhiệm chức danh Phó Giám đốc nhưng phía bị đơn và những đơn vị giao dịch với bị đơn đều thừa nhận thì ông H mới đại diện bị đơn đứng ra giao dịch được.

Theo Biên bản hòa giải ngày 18/01/2019 tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận C cho thấy phía bị đơn cho rằng đã trả đủ lương hàng tháng 3.000.000đ/tháng trong giai đoạn từ tháng 10/2016 đến 24/10/2018; cho thấy, bị đơn cũng thừa nhận thời điểm ông H làm việc tại Công ty trong giai đoạn này.

Đối với việc bị đơn cho rằng hợp đồng lao động là giả, bà H ký để phục vụ cho ông H vay tiền Ngân hàng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập hồ sơ vay vốn của ông H, cho thấy ông H không dùng hợp đồng lao động để vay tiền ngân hàng. Lý do trong hồ sơ vay vốn của ông H tại Công ty Tài chính Việt Nam Thịnh Vượng ghi là lao động tự do là vì thời điểm đó ông H bị nợ xấu, ông H cần vay tiền để mua những món đồ nhỏ, phục vụ chi tiêu cá nhân nhưng ông H cũng không dùng danh nghĩa Công ty để vay vốn.

Ông H đã làm việc tại Công ty từ tháng 10/2016 đến ngày 24/10/2018 nhưng bị đơn chỉ thanh toán 05 tháng phụ cấp tiền ăn x 3.000.000đ/tháng = 15.000.000đ cho nguyên đơn. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện cam kết đã hứa miệng với nguyên đơn là mức lương bị đơn trả cho nguyên đơn 13.500.000đ/tháng theo chứng cứ là Hợp đồng lao động đã ký ngày 07/01/2017 và Biên bản về việc nghiệm thu đóng điện công trình cho Công ty Cổ phần Nhựa T vào tháng 7/2018. Tuy nhiên, nay phía nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bị đơn phải trả tiền lương trong giai đoạn từ khi Hợp đồng lao động có hiệu lực từ ngày 01/02/2018 đến ngày 24/10/2018 là 09 tháng 23 ngày x 13.500.000đ/tháng = 131.850.000đ.

Đại diện bị đơn vẫn giữ nguyên ý kiến, không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn; đồng thời, yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ sang Công an để điều tra về hành vi ông H lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Công ty.

* Tại bản án sơ thẩm số 04/2022/LĐST ngày 25/4/2022 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải trả tiền lương còn thiếu trong giai đoạn từ tháng 10/2016 đến ngày 01/02/2018.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn là Công ty Cổ phần Nhựa T phải trả tiền lương còn thiếu từ ngày 01/02/2018 đến ngày 24/10/2018, mức lương 13.500.000đ/tháng; tổng cộng 131.850.000đ.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo qui định.

Ngày 10/5/2022 nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến khi xét xử đều tuân thủ đúng định pháp luật.

- Về nội dung giải quyết vụ án:

Hình thức và nội dung Hợp đồng lao động ngày 07/01/2017 giữa ông Nguyễn Ngọc H và Công ty Cổ phần Nhựa T thì Hợp đồng này do ông H là người soạn thảo, có chữ ký của bà Đồng Thị Thu H và con dấu Công ty Cổ phần Nhựa T, thời gian lập hợp đồng tại Công ty Cổ phần Nhựa T ngày 07/01/2017 nhưng hiệu lực hợp đồng từ ngày 01/02/2018. Căn cứ theo Công văn trả lời của Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Cần Thơ thì ngày 10/01/2018, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Nhựa T mới đăng ký chuyển đổi thành Công ty Cổ phần Nhựa T. Do đó, tại thời điểm ký kết hợp đồng lao động ngày 07/01/2017 thì không thể có con dấu của Công ty.

Mẫu của Hợp đồng lao động do ông H cung cấp không đồng nhất với các hợp đồng khác của Công ty. Hơn nữa, hợp đồng ký ngày 07/01/2017, có hiệu lực ngày 01/02/2018, bà H ký tên với chức danh là Giám đốc Công ty. Tuy nhiên, bà H được bổ nhiệm chức danh Giám đốc vào ngày 01/3/2018, bà H chỉ nhận mức lương 3.500.000đ nhưng ông H lại nhận mức lương là 13.500.000đ; như vậy, Hợp đồng lao động là chưa đúng và chưa phù hợp.

Ông H cho rằng có làm tại Công ty trong giai đoạn từ ngày 14/02/2017 đến ngày 10/01/2018 khi Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhựa T chuyển đổi thành Công ty Cổ phần Nhựa T, mức lương 13.500.000đ; xét thấy, trong giai đoạn này giữa ông H với Công ty không có hợp đồng bằng văn bản. Ông H cho rằng mức lương của ông là 13.500.000đ nhưng ông không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh về công việc ông làm, chức vụ trong Công ty và bảng lương thỏa thuận giữa các bên cụ thể là bao nhiêu. Ngoài ra, ông H đưa ra người làm chứng là bà Bùi Thị Thu T là tạp vụ của Công ty và ông Nguyễn Thạch E là thợ thi công nhà xưởng vào năm 2017, những người này chỉ biết ông H làm việc ở Công ty nhưng không biết chức vụ và hợp đồng lao động, tiền lương của ông H ở Công ty. Do đó, có cơ sở để xác định thời điểm này ông H có làm việc ở Công ty nhưng không có hợp đồng lao động theo quy định và Công ty chỉ trả lương theo ngày cho ông H.

Giai đoạn ông H làm việc tại Công ty Cổ phần Nhựa T từ ngày 10/01/2018 đến tháng 10/2018: bị đơn cho rằng ông H không có làm việc cho Công ty trong giai đoạn này và bà H ký hợp đồng lao động cho ông H chỉ để ông H vay tiền các Ngân hàng, bị đơn không đồng ý còn nợ tiền lương của ông H; còn ông H không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh có làm việc trong giai đoạn này và chức vụ, mức lương thỏa thuận cụ thể với bị đơn là bao nhiêu. Về số tiền nợ lương này đã được thanh toán xong qua tự khai ngày 29/7/2019 của ông H. Do vậy không có cơ ở để xác định bị đơn còn nợ lương của ông H từ 10/01/2018 đến 24/10/2018, mức lương 13.500.000đ, tổng cộng 121.500.000đ.

Đề nghị bác đơn kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: đây là vụ kiện tranh chấp lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động về "Tranh chấp tiền lương và hợp đồng lao động”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về trình tự, thủ tục và thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động: nguyên đơn cho rằng bị đơn còn nợ tiền lương của nguyên đơn từ tháng 10/2016 đến ngày 24/10/2018 là 24 tháng chưa thanh toán đầy đủ nên đã xảy ra tranh chấp và được Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận C hòa giải vào ngày 18/01/2019 nhưng không thành. Ngày 08/4/2019, nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án yêu cầu giải quyết. Xét thấy, việc khởi kiện của nguyên đơn là đúng trình tự, thủ tục và còn trong thời hiệu theo quy định tại Điều 201, 202 Bộ luật Lao động.

[3] Về kháng cáo của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn trả tiền lương trong thời hạn 01/02/2018 đến ngày 24/10/2018 số tiền là 121.500.000đ:

3.1 Xét Hợp đồng lao động ngày 07/01/2017 giữa ông Nguyễn Ngọc H và Công ty Cổ phần Nhựa T cho thấy, Hợp đồng này do ông H là người soạn thảo, có chữ ký của bà Đồng Thị Thu H và con dấu Công ty Cổ phần Nhựa T. Thời gian lập hợp đồng tại Công ty Cổ phần Nhựa T ngày 07/01/2017 nhưng hiệu lực hợp đồng từ ngày 01/02/2018. Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Cần Thơ thì ngày 10/01/2018 Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nhựa T mới đăng ký chuyển đổi thành Công ty Cổ phần Nhựa T. Do đó, tại thời điểm ngày 07/01/2017 không thể có con dấu của Công ty Cổ phần Nhựa T nên Hợp đồng lao động không thể lập vào ngày 07/01/2017.

3.2 Chức vụ của ông H do ông H ghi trong Hợp đồng lao động ngày 07/01/2017 là quản lý, tức một chức vụ quan trọng trong công ty và mức lương hàng tháng 13.500.000đ thì thuộc diện người sử dụng lao động phải kê khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân của người lao động với cơ quan thuế. Tuy nhiên, theo danh sách kèm theo tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân năm 2018 của Công ty Cổ phẩn Nhựa T thì không có tên ông Nguyễn Ngọc H. Cho thấy, mức lương ông H ghi trong hợp đồng lao động là không có thực.

3.3 Đối với việc ông H cho rằng ông làm việc cho Công ty của bà H từ 10/2016 đến ngày 24/10/2018 là 24 tháng, khi Công ty còn ở Quốc lộ 1 là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhựa P; xét thấy:

3.3.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Nhựa T (đăng ký lần đầu ngày 14/02/2017, địa chỉ: khu vực T, phường T, quận C) và đăng ký thay đổi thành Công ty Cổ phần Nhựa T từ ngày 10/01/2018. Do bị đơn của vụ kiện này là pháp nhân, còn việc bà H có thuê ông H làm việc hay không trong giai đoạn từ tháng 10/2016 đến ngày 14/02/2017 là quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động cá nhân với người lao động; ngoài ra, bà H có địa chỉ cư trú tại 117/5 đường 3/2, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. Do đó, thời gian từ tháng 10/2016 đến ngày 14/02/2017, ông H có quan hệ lao động với bà H hay không thì Hội đồng xét xử không xem xét, không thuộc phạm vi giải quyết của vụ án này.

3.3.2 Đối với giai đoạn ông H làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Nhựa T từ ngày 14/02/2017 đến ngày thay đổi thành Công ty Cổ phần Nhựa T 10/01/2018: Trong giai đoạn này, giữa ông H với Công ty không có hợp đồng bằng văn bản. Ông H cho rằng ông làm quản lý công ty và mức lương là 13.500.000đ nhưng không đưa được tài liệu, chứng cứ chứng minh về công việc và sự thỏa thuận tiền lương giữa các bên cụ thể là bao nhiêu. Tuy nhiên, trong giai đoạn này ông H có mặt ở Công ty Nhựa T là có thật; thể hiện qua sự việc vào lúc 16 giờ ngày 15/9/2017, ông H có ở mặt Công ty Nhựa T khi có nhóm thanh niên đến Công ty xô xát với bà H và các bên có làm việc ở Công an phường T, quận C nhưng theo biên bản khi xảy ra sự việc thì thời điểm đó ông H “đang nằm võng”, còn bà H khai với Công an thời điểm đó ông H là kế toán của Công ty.

Việc ông H đưa ra người làm chứng là bà Bùi Thị Thu T là tạp vụ của Công ty vào năm 2017 và ông Nguyễn Thạch E là thợ thi công nhà xưởng cho Công ty năm 2017 thì những người này chỉ biết ông H có làm việc ở Công ty nhưng không rõ chức vụ gì và hợp đồng lao động, tiền lương của ông H với Công ty như thế nào thì những người này không biết được và lời khai của những người này không có đủ cơ sở để làm căn cứ chứng minh nên việc đối chất giữa những người làm chứng này với người sử dụng lao động là không cần thiết.

Ngoài ra, theo Đơn đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng của ông H với Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng ngày 23/3/2017, ông H khai công việc của ông là “tự do”, địa chỉ nơi làm việc cũng là địa chỉ tạm trú của ông H tại số 160/52 đường T, phường H, quận N, thu nhập hàng tháng là 6.000.000đ và Hồ sơ đề nghị vay vốn của ông Nguyễn Ngọc H ngày 03/8/2017 tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông (OCB) thì ông H khai công việc của ông là nhân viên tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Nhựa T, mức thu nhập cá nhân là 7.000.000đ.

Do ông H không đưa ra được chứng cứ chứng minh mức lương và công việc đã thỏa thuận giữa ông H với Công ty trong giai đoạn này, còn đại diện Công ty không thừa nhận có thuê ông H làm việc cho Công ty, chỉ thuê ông H ngủ giữ vật liệu xây dựng và đã trả tiền công nhật khi ông H làm việc theo mức thỏa thuận 3.000.000đ/30 ngày. Ông H cũng thừa nhận ông được bà H trả lương 3.000.000đ/tháng trong giai đoạn này. Tuy nhiên, tại phiên tòa nguyên đơn rút yêu cầu đòi bị đơn phải trả tiền lương trong giai đoạn này. Đây là quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, cấp sơ thẩm đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đúng qui định, cần rút kinh nghiệm.

3.3.3 Xét giai đoạn ông H làm việc tại Công ty Cổ phần Nhựa T từ ngày 10/01/2018 đến tháng 10/2018: Theo Biên bản về việc nghiệm thu đóng điện công trình cho Công ty Cổ phần Nhựa T vào tháng 7/2018 thì giai đoạn này ông H đang làm việc ở Công ty là có thật; tuy nhiên, chức vụ Phó giám đốc Công ty do ông H ghi trong biên bản là không có thật do ông H không có Quyết định bổ nhiệm Phó Giám đốc của chủ Công ty.

Như lập luận tại mục 3.1 và 3.2 thì Hợp đồng lao động ngày 07/01/2017 giữa ông H với Công ty Cổ phần Nhựa T là không có thật, công việc và mức lương của ông H ghi trong hợp đồng cũng không có thật. Ngoài ra, không có cơ sở để xác định ông H có chức vụ và mức lương đã thỏa thuận với Công ty là bao nhiêu; phía nguyên đơn cho rằng bà H có hứa miệng với ông H trả lương cho ông H mức lương 13.500.000đ; còn bị đơn cho rằng ông H chỉ ngủ giữ kho vật tư cho Công ty, trả lương công nhật 3.00.000đ/30 ngày; hơn nữa, bị đơn cho rằng ông H không có làm việc tại Công ty giai đoạn này và hợp đồng lao động ông H đưa là không có thật, chỉ ký để hợp thức hóa cho ông H vay tiền. Do đó, lời trình bày của nguyên đơn về chức vụ và mức lương 13.500.000đ/tháng là không có cơ sở để xem xét.

Mặt khác, tại Bản tự khai ngày 29/7/2019 của ông H (Bút lục số 69), ông H cho rằng, ông được bà H trả tiền lương mỗi tháng 3.000.000đ từ tháng 10/2016 đến tháng 10/2018, thời gian 24 tháng x 3.000.000đ/tháng = 72.000.000đ; như vậy, trong giai đoạn này, bà H đã trả cho ông mỗi tháng 3.000.000đ. Do đó, không có cơ sở cho rằng bị đơn còn thiếu tiền lương của ông H trong giai đoạn này; vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn phải trả tiền lương từ khi hợp đồng lao động có hiệu lực ngày 01/02/2018 đến ngày 24/10/2018 với mức lương 13.500.000đ/tháng; tổng cộng 121.500.000đ là không có cơ sở, không được chấp nhận.

Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn kháng cáo thay đổi số tiền yêu cầu là 121.500.000 đồng do trước đây có nhầm lẫn, nhưng không cung cấp thêm chứng cứ mới nào khác, vì vậy không có cơ sở để xem xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Án sơ thẩm xử là có căn cứ, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên có sửa lại câu chữ trong phần quyết định bản án sơ thẩm.

Quan điểm đề nghị của kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

[4] Về án phí tranh chấp lao động sơ phúc thẩm: theo quy định tại Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Do nguyên đơn là người lao động nên được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng :

- Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

- Về hình thức: Chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc H.

- Về nội dung: Bác đơn kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc H Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn là Công ty Cổ phần Nhựa T phải trả tiền lương còn thiếu từ ngày 01/02/2018 đến ngày 24/10/2018, mức lương 13.500.000đ/tháng; tổng cộng 121.500.000đ.

2. Về án phí tranh chấp lao động sơ thẩm và phúc thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc H được miễn nộp tiền án phí.

Bản án phúc thẩm có hiệu luật pháp luật kể từ ngày tuyên án. Tuyên án ngày 12/9/2022.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự và Điều 7a Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2883
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền lương số 02/2022/LĐPT

Số hiệu:02/2022/LĐPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về