Bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn số 1159/2017/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1159/2017/KDTM-PT NGÀY 18/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP VỐN

Trong các ngày 08 và ngày 18 tháng 12 năm 2017 tại Tòa án nhân dân Th phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2017/TLPT-KDTM ngày 14 tháng 9 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng góp vốn.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 70/2017/KDTM-ST ngày 04 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân Quận 10 bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2298/2017/QĐ-PT ngày 17 tháng 10 năm 2017 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 6025/2017/QĐ-PT ngày 09 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Ngọc H Địa chỉ: 119 đường N, Phường 13, Quận 4, Th phố H.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Bồ Thị V.

Địa chỉ: 329/10 đường T, Phường 10, quận P, Th phố H.

(Được ủy quyền theo Giấy ủy quyền ngày 01/12/2015 tại văn phòng công chứng Bến Nghé). (có mặt)

- Bị đơn: Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H (Nay đổi tên là: Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ H1).

Địa chỉ trụ sở: FF12B đường Ba Vì, Phường 15, Quận 10, Th phố H.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: bà Hoàng Thị H Địa chỉ: 25/1A đường Đ, Phường 6, Quận 3, Th phố H. (Được ủy quyền theo Giấy ủy quyền ngày 06/11/2017 ). (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

Ông Nguyễn Đăng Tr – Là Luật sư của văn phòng luật sư S thuộc Đoàn luật sư Th phố H (có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại và Đầu tư Nam V.

Địa chỉ trụ sở: FF12B đường Ba Vì, Phường 15, Quận 10, Th phố H.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Anh V (có mặt).

Địa chỉ: FF 12B Ba Vì, Phường 15, Quận 10, Th phố H.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - Công ty cổ phần xây dựng thương mại và đầu tư Nam V:

Ông Phạm Ngọc Trung – Là Luật sư của Công ty luật trách nhiệm hữu hạn A thuộc Đoàn luật sư Th phố H (có mặt).

2. Công ty Cổ phần Sắt thép C.

Địa chỉ trụ sở: 25-27 đường 48C, khu phố 9, phường Tân Tạo, quận Bình Tân, Th phố H.

Người đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần Sắt thép C:

Ông Lê Thái Sâm - Giám đốc Công ty cổ phần Sắt thép C (vắng mặt).

Địa chỉ: 27-06B V, số 126 đường B, Phường 12, Quận 5, Th phố H. (Vắng mặt).

3. Ông Huỳnh Ngọc Đ, sinh năm: 1969.

Địa chỉ: 128 đường Mê Linh, thành phố N, tỉnh K.

Người đại diện hợp pháp của ông Huỳnh Ngọc Đ: Bà Bồ Thị V (Được ủy quyền theo Giấy ủy quyền ngày 18/9/2017 tại V phòng Công chứng Bến Nghé) (có mặt).

Người kháng cáo: Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của nguyên đơn trình bày:

Ngày 08/7/2010 nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc H (Gọi tắt là bà H) cho Công ty cổ phần Sắt thép C (gọi tắt là C) vay 10 tỷ đồng.

Ngày 04/10/2011, C đã chuyển cho bà H 10 tỷ đồng trong số tiền 10.556.930.000 đồng mà C đã góp vốn để xây dựng Trung tâm hội nghị và Nhà hàng tiệc cưới Q (gọi tắt là Q) thuộc Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H (gọi tắt là H) để cấn trừ nợ.

Ngày 08/11/2011, các Nhà đầu tư vào Q đã tiến hành cuộc họp để xác định lại phần vốn góp và thỏa thuận các vấn đề liên quan đến việc quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh tại Q. Sau khi thỏa thuận các bên đã ký kết với nhau Hợp đồng góp vốn số: 33/BBH/HT’2011 ngày 08/11/2011 (từ nay gọi tắt là Hợp đồng góp vốn số 33). Hợp đồng xác định: Q trực thuộc H có tổng số vốn đầu tư là 31.151.448.018 đồng, trong đó vốn góp của bà H là 10 tỷ đồng chiếm 32,12% trên tổng số vốn đầu tư. Bà H được một suất trong thành viên Hội đồng quản trị Q.

Ngày 29/02/2012, Hội đồng quản trị Q họp thông qua báo cáo kết quả kinh doanh năm 2011 và kế hoạch kinh doanh năm 2012 của Q và đưa ra quyết định hàng tháng mỗi thành viên Hội đồng quản trị Q được trả thù lao 5.000.000 đồng.

Từ tháng 11/2011 đến ngày 24/10/2012 bà H đã được H chia lợi nhuận từ việc kinh doanh Q với số tiền là 2.228.417.079 đồng và tiền thù lao thành viên Hội đồng quản trị là 60.000.000 đồng (có phiếu chi kèm theo). Tuy nhiên, từ ngày 24/10/2012 cho đến nay H đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng góp vốn với bà H, cụ thể là H không phân chia lợi nhuận, không trả tiền thù lao thành viên Hội đồng quản trị và không gửi báo cáo kinh doanh tại Q cho bà H.

Ngày 10/12/2014, bà H nộp đơn khởi kiện H đến Tòa án nhân dân Quận 10. Bà H yêu cầu H phải phân chia lợi nhuận và chuyển cho bà H các báo cáo kinh doanh tại Q tạm tính từ tháng 10/2012 đến ngày khởi kiện; Trả tiền thù lao thành viên Hội đồng quản trị cho bà H tạm tính từ tháng 10/2012 đến ngày khởi kiện là 125.000.000 đồng. Ngày 09/8/2016 bà H có đơn khởi kiện bổ sung buộc H trả cho bà H 10 tỷ đồng tiền góp vốn vào Q thuộc H.

Tại Đơn xác nhận nội dung yêu cầu khởi kiện ngày 16/3/2017 nguyên đơn xin rút lại các yêu cầu khởi kiện theo đơn khởi kiện ngày 08/12/2014. Nguyên đơn yêu cầu đình chỉ thực hiện hợp đồng góp vốn giữa bà H và H từ ngày 24/10/2012 (ngày cuối cùng H trả lợi nhuận cho bà H), yêu cầu H trả cho bà H 10 tỷ đồng tiền vốn góp.

Tại các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền của bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì các lý do:

Ngày 08/11/2011, H và bà H ký kết với nhau hợp đồng góp vốn số 33, theo hợp đồng bà H thỏa thuận góp vốn 10 tỷ đồng vào dự án Q thuộc H. Sau khi ký kết hợp đồng góp vốn thì bà H không thực hiện việc góp vốn 10 tỷ như thỏa thuận, do đó H không phân chia lợi nhuận tại Q cho bà H.

Ngày 04/10/2011, C ban hành Công văn số: 65/CL-CV về việc C chuyển nhượng cho bà H 10 tỷ đồng trong số tiền 10.556.930.000 đồng mà C đã góp vốn xây dựng Q để cấn trừ nợ với bà H. Tại thời điểm ban hành công văn này, ông Huỳnh Ngọc Đ con rể bà H là cổ đông lớn của các công ty C, Nam V và H. Việc quản lý, điều hành giữa các công ty có sự chồng chéo nên H mới ký kết với bà H Hợp đồng góp vốn số 33 ngày 08/11/2011 và phân chia lợi nhuận từ việc kinh doanh Q cho bà H. Ngày 09/11/2012, sau khi đối chiếu sổ sách thì ông Đ còn nợ Nam V số tiền 15.501.640.551 đồng nên H và Nam V đã không chấp thuận Công văn số 65/CL-CV ngày 04/10/2011 của C. Bà H muốn lấy lại số tiền 10 tỷ đồng thì bà H phải khởi kiện C để thu hồi nợ. H không có nghĩa vụ trả nợ thay cho C.

Ngày 08/7/2015 H có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu bà H phải trả lại cho H 2.350.135.048 đồng tiền H đã phân chia lợi nhuận cho bà H trong việc kinh doanh Q và 60.000.000 đồng tiền thù lao thành viên Hội đồng quản trị tại Q từ tháng 10/2011 đến tháng 10/2012. Tuy nhiên, H không nộp tiền tạm ứng án phí theo thông báo của Tòa án.

Tại các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty C có ông Lê Thái Sâm giám đốc trình bày: Ngày 08/7/2010 C có vay của bà H 10 tỷ đồng. Số tiền này C đã trả cho bà H bằng việc ngày 04/10/2011 C ban hành Công văn số:

65/CL-CV chuyển nhượng cho bà H 10 tỷ đồng trong số tiền 10.556.930.000 đồng mà C đã góp vốn để xây dựng Q thuộc H (đây là số tiền C đã thanh toán cho Công ty V thay cho Nam V để xây dựng nhà hàng Nam Á). Việc chuyển nhượng vốn góp của C đã được bà H, H và Nam V đồng ý thể hiện bằng việc H và bà H đã ký kết với nhau Hợp đồng góp vốn số 33 ngày 08/11/2011 và H đã phân chia lợi nhuận từ việc kinh doanh Q cho bà H. Nay bà H và H tranh chấp với nhau về Hợp đồng góp vốn số 33 thì C không có yêu cầu hay ý kiến gì.

Tại các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty Nam V trình bày: Ngày 04/10/2011 C ban hành Công văn số 65/CL-CV về việc chuyển nhượng 10 tỷ đồng tiền đầu tư của C vào dự án Q cho bà H. Nam V không đồng ý với Công văn số 65 vì tại thời điểm C chuyển nhượng 10 tỷ đồng tiền vốn góp cho bà H để cấn trừ nợ thì ông Huỳnh Ngọc Đ (con rể là người đại diện bà H) là cổ đông lớn và là người đại diện theo pháp luật của Nam V và C. Ông Đ đã lợi dụng việc giữ chức vụ quản lý 02 Công ty này để ký kết nhiều hồ sơ, chứng từ nhằm trục lợi cho cá nhân và những người thân thích của ông Đ (trong đó có bà H). Ngày 09/11/2012 sau khi đối chiếu sổ sách thì tính đến ngày 30/9/2011 ông Đ còn nợ Công ty Nam V 15.501.640.551 đồng. Ngoài ra Nam V còn đứng ra thế chấp tài sản của mình để cho C vay vốn của Ngân hàng đến nay C vẫn chưa trả được nợ cho Ngân hàng nên tài sản của Nam V vẫn đang bị Ngân hàng phong tỏa.

Tại các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, ông Huỳnh Ngọc Đ trình bày: Ngày 08/11/2011 ông được bà H ủy quyền tham gia ký kết Hợp đồng góp vốn số 33 với H. Tại hợp đồng xác định bà H góp vốn 10 tỷ đồng vào Q thuộc H. Sau đó ông cũng đại diện cho bà H tham gia vào Hội đồng quản trị của Q và nhận tiền phân chia lợi nhuận của H. Sau khi nhận tiền ông đều giao trả bà H nên ông không còn liên quan gì đến số tiền góp vốn của bà H vào H. Tại thời điểm C ban hành Công văn 65 ngày 04/10/2011 để cấn trừ nợ cho bà H thì ông không phải là người đại diện theo pháp luật cho Nam V hay C. Nam V cho rằng cá nhân ông còn thiếu nợ Nam V là không có cơ sở. Nam V nếu có tranh chấp với ông thì khởi kiện bằng một vụ kiện khác không liên quan gì trong vụ án này.

Với nội dung trên, Tại Bản án sơ thẩm số 70/2017/KDTM-ST ngày 04 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân Quận 10, Th phố H đã quyết định:

- Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 238, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 306; Điều 310; Điều 311 Luật Thương mại;

- Áp dụng Thông tư Liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn về việc xét xử và thi hành án về tài sản;

- Áp dụng Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng Điều 3, Điều 5, Điều 18, Điều 24, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án và mục 3 phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc H về việc buộc bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H phải: Chuyển cho bà H các báo cáo kinh doanh tại Q; Trả tiền thù lao thành viên Hội đồng quản trị cho bà H 125.000.000 đồng; Phân chia lợi nhuận tại Q cho bà H từ tháng 10/2012 đến ngày khởi kiện.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Đình chỉ thực hiện Hợp đồng góp vốn số 33/BBH/HT’2011 ngày 08/11/2011 giữa bà Phạm Thị Ngọc H và Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H kể từ ngày 24/10/2012.

Buộc Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H (nay đổi tên là: Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ H1) phải trả cho bà Phạm Thị Ngọc H số tiền góp vốn 10.000.000.000 (mười tỷ) đồng. Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành chưa thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Án phí dân sự sơ thẩm về kinh doanh thương mại: 118.000.000 (một trăm mười tám triệu) đồng buộc Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H (nay đổi tên là: Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ H1) phải chịu.

Bà Phạm Thị Ngọc H không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.125.000 đồng theo biên lai thu số 08377 ngày 15/01/2015 và 29.500.000 đồng theo biên lai thu số 0000421 ngày 12/10/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Th phố H.

Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo, quyền thi hành án cho các bên đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16 tháng 8 năm 2017 bị đơn - Công ty H đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện ủy quyền của bị đơn - Công ty H trình bày: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở. H chưa bao giờ nhận được công văn số 65 ngày 04/10/2011 của C và C cũng không có đầu tư góp vốn xây dựng dự án Q. Vào thời điểm ký kết hợp đồng góp vốn số 33 thì người đại diện theo pháp luật của H là ông Trần Ngọc Th chứ không phải là ông Lê Anh V.

Ngày 8/11/2011, các nhà đầu tư vào dự án Q có họp và ký kết hợp đồng góp vốn số 33 ngày 08/11/2011, Điều 2 hợp đồng đã ghi nhận tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư trong đó bà H - đại diện cho ông Đ thỏa thuận đăng ký góp số vốn là 10 tỷ, tương đương số cổ phần là 1.000.000 cổ phần (tỷ lệ 32,12%) tại Điều 2 cũng nêu rõ sau khi các nhà đầu tư nộp đủ số cổ phần đăng ký thì H sẽ phát hành giấy xác nhận sở hữu cổ phần của Q cho các cổ đông. Tại Điều 10 của hợp đồng đã qui định rõ để trở thành cổ đông góp vốn phải hội đủ ba điều kiện: Các bên phải làm thủ tục đối chiếu công nợ, chuyển nhượng cổ phần cho nhau và phát hành sổ cổ đông. Do bà H chưa thực hiện việc góp vốn như cam kết nên H chưa phát hành sổ cổ đông và giấy xác nhận sở hữu cổ phần. Việc tòa án cấp sơ thẩm nhận định bà H đã góp vốn thông qua việc C chuyển nhượng phần góp vốn C vào dự án công trình Q thông qua công văn 65 mà C gửi cho Nam V là không đúng vì C không đầu tư góp vốn với Nam V vào dự án Q, việc C đứng ra thanh toán cho chủ thầu xây dựng là Công ty V là trả thay cho ông Đ để ông Đ thực hiện nghĩa vụ cổ đông góp 45% vốn tại Công ty Nam V. Nam V chưa bao giờ nộp vào dự án cho H số tiền 10 tỷ thay cho bà H. Do chưa đối chiếu được công nợ của ông Đ và bà H cam kết góp 10 tỷ vào dự án Q nên H tạm ứng chia lợi nhuận cho ông Đ và bà H từ tháng 10 năm 2011, nhưng sau khi đối chiếu xác định vốn góp cổ đông của ông Đ tại Nam V đến thời điểm ngày 30/9/2011 (theo biên bản đối chiếu công nợ có xác nhận của ông Đ vào ngày 09/11/2012) thì ông Đ còn nợ tiền Nam V. do đó dự án Q đã không chia tiền lợi nhuận cho ông Đ và bà H nữa. Đề nghị tòa bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Công ty Nam V trình bày: Xác nhận lời trình bày của H trình bày tại phiên tòa phúc thẩm là đúng. Nam V không hợp tác với C xây dựng dự án Nam Á và cũng không có công nợ gì với C, do đó Nam V không có nghĩa vụ phải chuyển số tiền 10 tỷ mà C cho rằng đã đầu tư góp vốn với Nam V xây dựng Q nên Nam V không có trách nhiệm phải trả lời công văn 65 ngày 4/10/2011 của C và cũng không hề chuyển số tiền này cho H như lời trình bày của nguyên đơn. Nam V đã chứng minh các khoản tiền góp vốn giữa ông Đ và ông V tại Nam V cho đến hết ngày 30/09/2011 với số tiền ông Đ còn nợ ông V là 15.501.640.551 đồng theo Bản đối chiếu công nợ ngày 09/11/2012. Do vậy, sau khi xác định được khoản công nợ giữa ông Đ với ông V thì ông V đã yêu cầu H ngưng việc trả tiền lợi nhuận và khoản tiền thù lao thành viên Hội đồng quản trị cho bà H, ông Đ từ tháng 10/2012.

Thực chất việc cam kết góp vốn tại Dự án Q là của ông Đ chứ không phải là bà H. Tại Hợp đồng góp vốn số 33 cũng ghi nhận người đại diện của bà H là ông Đ và ông Đ là thành viên HĐQT (không có bất cứ một giấy ủy quyền nào từ bà H), tại Điều 1 phần tổng mức đầu tư đã ghi nhận phần lãi vay 5.501.717.987 đồng sẽ do 2 cổ đông là ông V và ông Đ chịu. Biên bản họp HĐQT Q mở rộng ngày 29/02/2012 cũng ghi nhận ông Đ là thành viên HĐQT. Như vậy, khi có sự chuyển nhượng cổ phần trong H và Nam V cũng như Dự án Q giữa ông V và ông Đ nhưng chưa có sự đối chiếu công nợ do ông Đ cố tình kéo dài thời gian thì ông Đ đã đưa bà H (là mẹ vợ) vào đứng tên là thành viên góp vốn tại Dự án Q để nhận khoản tiền tạm ứng chia lãi và thù lao HĐQT thay cho ông Đ. H đã trả tiền tạm ứng lợi nhuận và tiền thù lao thành viên HĐQT cho ông Đ là trên cơ sở Hợp đồng góp vốn 33 khi chưa có việc đối chiếu công nợ. Chính vì vậy, nên khi có việc đối chiếu công nợ giữa ông V và Ông Đ thì tháng 12/2012 H đã ngừng việc trả lãi và tiền thù lao thành viên HĐQT cho ông Đ. Đề nghị tòa bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện nguyên đơn trình bày:

Bà H đã được C chuyển nhượng số tiền 10 tỷ đồng vào góp vốn thông qua công văn 65 ngày 4/10/2011 và Hợp đồng góp vốn số 33 ngày 8/11/2011. Tuy bà H chưa được H cấp giấy xác nhận sở hữu cổ phần của Q nhưng bà H đã góp đủ số tiền này bằng cách được C chuyển nhượng lại trong số tiền 10.556.930.000 đồng theo bản kê chi tiết ngày 31/12/2014 của C gửi Tòa. H đã chấp nhận việc chuyển nhượng số tiền 10 tỷ của C chuyển qua nên đã đồng ý ký hợp đồng góp vốn số 33 và chi tiền lợi nhuận và tiền thành viên HĐQT cho bà H từ tháng 10/2011 đến tháng 11/2012 rồi không chia tiếp nên nguyên đơn khởi kiện đề nghị H phải trả lại số tiền 10 tỷ góp vốn theo hợp đồng góp vốn số 33 ngày 8/11/2011. Đề nghị hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 18/12/2017 nguyên đơn đã nộp các ủy nhiệm chi của Công ty C thanh toán tiền cho công ty V để chứng minh C đã đầu tư góp vốn cùng với Công ty Nam V xây dựng công trình Q với số tiền 10.556.930.000 đồng Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Th phố H phát biểu: Việc Tòa án nhân dân Th phố H thụ lý và giải quyết vụ án là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do nguyên đơn bà H kiện Công ty H đòi lại số tiền 10 tỷ góp vốn vào trung tâm hội nghị tiệc cưới Q thuộc Công ty H theo hợp đồng góp vốn số 33 ngày 8/11/2011 nên phải xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty” theo qui định tại Khoản 3 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn có trụ sở hoạt động tại thành phố H, căn cứ Khoản 3 Điều 30; Điểm a Khoản 1 Điều 37; Điểm a Khoản 3 Điều 38, Điểm a Khoản 1 điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố H. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng góp vốn và áp dụng Khoản 1 Điều 30; Điểm b Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10, Th phố H để xét xử sơ thẩm là không đúng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về thẩm quyền giải quyết của Tòa án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đề nghị hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm và giữ lại hồ sơ vụ án tại Tòa án nhân dân Th phố H để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe lời trình bày của đương sự kháng cáo và các đương sự liên quan đến kháng cáo, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghị án Hội đồng xét xử nhận định:

[I] Về tố tụng:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn - bà H khởi kiện yêu cầu H phải trả lại số tiền góp vốn là 10 tỷ đồng mà nguyên đơn cho rằng đã đầu tư góp vốn vào dự án Trung tâm hội nghị và nhà hàng tiệc cưới Q (Gọi tắt là dự án Q) do H làm chủ đầu tư theo hợp đồng góp vốn số 33/BBH/HT 2011 ngày 08/11/2011. Địa chỉ trụ sở của H tại Quận 10. Đây là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng góp vốn trong hoạt động đầu tư vào dự án Q giữa cá nhân và tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận do đó Tòa án nhân dân Quận 10 xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng góp vốn và giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo qui định tại Khoản 1 Điều 30; Điểm b Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần, mã số doanh nghiệp: 0305124786 đăng ký thay đổi lần thứ 19 ngày 22 tháng 10 năm 2015 do bị đơn xuất trình có cơ sở xác định bị đơn Công ty cổ phần thương mại dịch vụ và chế biến thực phẩm H đã được đổi tên mới là Công ty Cổ phần thương mại dịch vụ H1 (gọi tắt là H).

[3] Xét người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan công ty C đã được Toà án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên toà. Theo qui định tại Khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[II] Về nội dung:

[1] Xét kháng cáo của bị đơn – Công ty H cho rằng nguyên đơn bà H chưa thực hiện nghĩa vụ góp vốn 10 tỷ đồng theo cam kết tại Điều 2 Hợp đồng góp vốn số 33/BBH/HT 2011 ngày 08/11/2011 mà Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc H thanh toán cho bà H số tiền 10 tỷ là không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của bị đơn. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1.1] Nguyên đơn bà H khởi kiện yêu cầu H phải trả cho bà H số tiền góp vốn là 10 tỷ đồng theo hợp đồng góp vốn số 33 ngày 08/11/2011, đây là số tiền mà nguyên đơn khai đã được C chuyển nhượng lại 10 tỷ đồng trong số tiền 10.556.930.000 đồng mà C đã đầu tư góp vốn với Nam V xây dựng Q do H làm chủ đầu tư để cấn trừ số nợ 10 tỷ mà bà H cho C vay vào ngày 08/7/2010. Việc cấn trừ nợ C đã thông báo cho Nam V và ông Lê Anh V biết bằng công văn số 65/CL-CV ngày 04/10/2011 và đã hoàn tất việc chuyển nhượng số tiền 10 tỷ này từ C sang bà H sau khi H đồng ý ký kết với bà H hợp đồng góp vốn số 33 xác định rõ bà H có số vốn góp là 10 tỷ đồng tương đương tỷ lệ 32,12% vốn góp, bà H được cử là thành viên hội đồng quản trị và công ty H đã phân chia lợi nhuận cho bà H từ tháng 10/2011 đến tháng 10/2012. Đại diện Nam V và H không thừa nhận lời trình bày của bà H, Nam V và H cho rằng C không có đầu tư hay góp vốn vào dự án Q và Nam V không vay nợ hay góp vốn chung với C. Việc bà H cho C mượn tiền thì bà H yêu cầu C thanh toán không liên quan đến H. Bà H đại diện ông Đ có cam kết góp số vốn 10 tỷ đồng vào Q do H làm chủ dự án nhưng do bà H không thực hiện việc góp vốn 10 tỷ theo cam kết nên hợp đồng góp vốn số 33 ngày 08/11/2011 không được thực hiện.

Xét thấy:

[1.2] Căn cứ hợp đồng góp vốn và thỏa thuận quản lý điều hành hoạt động kinh doanh tại dự án TT hội nghị và nhà hàng tiệc cưới Q số 33 ngày 08/11/2011 thể hiện: Tại Điều 2 xác định tỉ lệ tham gia góp vốn, các bên thỏa thuận tổng mức đầu tư 31.151.500.000 đồng. Bà Phạm Thị Ngọc H – đại diện ông Huỳnh Ngọc Đ thỏa thuận góp 10.000.000.000 đồng, tương đương 1.000.000 cổ phần với tỷ lệ 32,12%. Tại Điều 2 cũng qui định “Công ty H sẽ phát hành giấy xác nhận sở hữu cổ phần của Trung tâm hội nghị tiệc cưới Q đối với các cổ đông sau khi các cổ đông nộp đủ số cổ phần đăng ký”. Như vậy có cơ sở để khẳng định, tại thời điểm này nguyên đơn bà H đã tham gia ký kết và thỏa thuận góp số vốn 10 tỷ để trở thành nhà đầu tư của dự án Q, tuy nhiên để có quyền đi đòi H trả số tiền 10 tỷ góp vốn nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc H phải chứng minh thực tế đã góp vốn vào dự án Q 10 tỷ đồng hay chưa hoặc được chuyển nhượng hợp pháp số tiền 10 tỷ góp vốn mà C cho rằng đã đầu tư góp vốn với Nam V xây dựng dự án Q do H là chủ dự án để cấn trừ nợ cho bà H.

[3] Xét yêu cầu H thanh toán số tiền 10 tỷ đồng là vốn góp của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[3.1] Căn cứ vào Khế ước vay vốn số 9110/KUV ngày 08/7/2011 và lời thừa nhận tại tòa của Ông Lê Thái Sâm là người đại diện theo pháp luật của C có cơ sở xác định bà H có cho C vay 10 tỷ đồng với lãi suất 12%/năm, không xác định thời hạn thanh toán nợ.

[3.2] Quá trình giải quyết vụ án C xác nhận đã gửi văn bản số 65/CL-CV ngày 4/10/2011 cho Nam V chuyển quyền sở hữu 10 tỷ đồng vốn góp của C thuộc công trình Q cho bà Phạm Thị Ngọc H nằm trong số tiền 10.556.930.000 đồng đầu tư góp vốn cùng với Nam V. Tuy nhiên lời trình bày của nguyên đơn và C không được Nam V và H thừa nhận là có cơ sở, bởi lẽ nguyên đơn và C không cung cấp, xuất trình tài liệu, chứng từ sổ sách kế toán nào thể hiện C có việc đầu tư góp vốn cùng với Nam V xây dựng công trình Q với số tiền 10.556.930.000 đồng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, nguyên đơn và C cũng không chứng minh được việc C chuyển trả tiền cho công ty V theo các phiếu chi do nguyên đơn cung cấp tại tòa là thực hiện thỏa thuận với ai và vì mục đích gì, những chứng từ tài liệu nào xác định được có việc xác lập giao dịch đó và có liên quan gì đến khoản tiền 10 tỷ đồng mà C xác nhận vay của bà H với khoản tiền 10.556.930.000 đồng C cho rằng đã cấn trừ nợ cho bà H đã được C hạch toán hợp pháp và kê khai báo cáo đầy đủ theo qui định của pháp luật .

[3.3] Xét trong trường hợp nếu có việc góp vốn của C vào Dự án Q do H làm chủ đầu tư như lời trình bày của nguyên đơn, thì C và bà H phải chứng minh được C là bên chuyển quyền có quyền được chuyển giao góp vốn và khi thực hiện chuyển giao việc góp vốn cho Bà H, C bắt buộc phải thông báo cho H biết bằng văn bản theo qui định tại Khoản 2 Điều 309 BLDS 2005 về việc chuyển giao quyền yêu cầu, tiến hành đối chiếu công nợ giữa các bên và phải được sự đồng ý của Nam V, H bằng văn bản. Lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng trong công văn 65 có gửi cho Công ty H thông qua ông Lê Anh V là chủ tịch hội đồng thành viên và là người đại diện theo pháp luật của Công ty H là không có cơ sở vì theo các tài liệu do phòng đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và Đầu tư Th phố H cung cấp thông tin đăng ký kinh doanh của Công ty H từ năm 2011 đến năm 2012 (Từ BL 235 đến BL 248) thì người đại diện theo pháp luật của H là ông Trần Ngọc Th - chủ tịch hội đồng quản trị Công ty H, ông Lê Anh V không có tên trong danh sách cổ đông sáng lập của H. Tại tòa H xác định không nhận được văn bản yêu cầu chuyển giao khoản tiền góp vốn từ Nam V sang cho bà H, nguyên đơn cũng không chứng minh được C đã gửi công văn số 65 cho H và H đã đồng ý theo qui định tại Khoản 1 Điều 314 Bộ luật Dân sự, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định “bà H và Công ty C đều xác nhận việc Công ty C có tham gia góp vốn 10.556.930.000 đồng vào Q thuộc Công ty H. Để chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ, Công ty C đã cung cấp cho Tòa án các chứng từ ủy nhiệm chi và các bản kê chi tiết về số tiền mà Công ty C đã đầu tư vào Q nên Hội đồng xét xử có cơ sở xác định Công ty C góp vốn 10.556.930.000 đồng vào Q thuộc Công ty H là có thật” là không có căn cứ, bởi lẽ theo các quy định pháp luật nêu trên thì không thể đồng nhất đơn phương văn bản số 65/CL-CV ngày 04/10/2011 của C gởi Nam V và ông Lê Anh V với việc H đồng ý ký hợp đồng góp vốn số 33 để cho rằng bà H đã được chuyển giao hợp pháp số tiền 10 tỷ để đã đảm bảo cho khoản tiền góp vốn 10 tỷ đồng vào Dự án Q.

[3.4] Tại phiên tòa H xác nhận H có trả tiền tạm ứng lợi nhuận và tiền thù lao thành viên HĐQT cho bà H ông Đ như những phiếu chi đúng như nguyên đơn xuất trình, tuy nhiên việc trả tiền này là để đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia đầu tư dự án trên cơ sở ký kết Hợp đồng góp vốn khi chưa tiến hành đối chiếu công nợ theo trình tự, thỏa thuận tại hợp đồng. Chính vì vậy, nên sau khi đối chiếu công nợ giữa ông V và Ông Đ thì tháng 12/2012 H đã ngừng việc trả tiền lãi, tiền thù lao thành viên HĐQT cho ông Đ ngay khi có biên bản đối chiếu xác định vốn góp và tại thời điểm này ông Đ, bà H không hề có ý kiến phản đối. Lời trình bày của H là có cơ sở, phù hợp với diễn biến việc thực hiện hợp đồng góp vốn mà các bên ký kết. Trên thực tế Bà H chưa hề được cử làm thành viên HĐQT do bà H không thực hiện các điều kiện đã thỏa thuận tại Điều 10 của hợp đồng qui định để trở thành cổ đông góp vốn, các bên phải làm thủ tục đối chiếu công nợ, chuyển nhượng cổ phần cho nhau và phát hành sổ cổ đông.

[3.5] Theo qui định tại khoản 1 và Khoản 4 Điều 91 BLTTDS về nghĩa vụ chứng minh thì nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh và đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn xác nhận bà H vẫn chưa được H phát hành giấy xác nhận sở hữu cổ phần của Q theo Điều 2 của hợp đồng góp vốn, cũng như không đưa ra được chứng cứ chứng minh có các khoản công nợ hoặc có việc đầu tư giữa các Công ty C, Nam V và H, không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào thể hiện có việc giao nhận tài sản góp vốn như phiếu thu hoặc xác nhận bằng biên bản theo qui định điều 2 của Hợp đồng để xác định bà H góp đủ số vốn đã cam kết.

[3.6] Do Công ty C đã thừa nhận tại tòa có vay bà H số tiền 10 tỷ vào ngày 08/7/2010 nhưng C không chứng minh được đã cấn trừ hợp pháp số tiền nợ này chuyển cho H để thực hiện nghĩa vụ góp vốn thay bà H theo Hợp đồng góp vốn số 33, Nam V hay H không có nghĩa vụ phải thanh toán nợ thay cho C. Do đó, bà H có quyền khởi kiện yêu cầu C thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ vay 10 tỷ này trong vụ án khác nếu có yêu cầu.

[4] Với phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty H là có căn cứ chấp nhận nên cần sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì không có căn cứ.

[5] Do sửa bản án sơ thẩm nên hội đồng xét xử sửa lại toàn bộ án phí sơ thẩm cho phù hợp với các quy định pháp luật, Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận theo qui định tại Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 70/2017/KDTM-ST ngày 04/8/2017 của Tòa án nhân dân Quận 10, Th phố H.

- Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 148, Điều 259, Khoản 3 Điều 296 khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Khoản 2 Điều 309; Điều 310; Khoản 1 Điều 314 Bộ luật Dân sự 2005;

- Áp dụng Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng Điều 3, Điều 5, Điều 18, Điều 24, Điều 27, Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án và mục 3 phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc H về việc buộc bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H phải chuyển cho bà H các báo cáo kinh doanh tại Q; Trả tiền thù lao thành viên Hội đồng quản trị cho bà H 125.000.000 đồng; Phân chia lợi nhuận tại Q cho bà H từ tháng 10/2012 đến ngày khởi kiện.

2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc H về việc buộc Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ và Chế biến thực phẩm H (tên mới là: Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ H1) có nghĩa vụ phải trả cho bà Phạm Thị Ngọc H số tiền góp vốn 10.000.000.000 (mười tỷ) đồng theo hợp đồng góp vốn số 33/BBH/HT’2011 ngày 08/11/2011.

3. Về án phí:

- Nguyên đơn - Bà Phạm Thị Ngọc H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 118.000.000 (một trăm mười tám triệu) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.125.000 đồng theo biên lai thu số 08377 ngày 15/01/2015 và 29.500.000 đồng theo biên lai thu số 0000421 ngày 12/10/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Th phố H, bà H còn phải nộp thêm số tiền án phí dân sự sơ thẩm về kinh doanh thương mại là 85.375.000 (tám mươi lăm triệu ba trăm bảy mươi lăm ngàn) đồng

- Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ H1 không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Hoàn lại cho Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ H1 số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số AE/2014/0001635 ngày 17 tháng 8 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 Th phố H và số tiền 1.700.000 đồng (một triệu bảy trăm ngàn đồng) theo biên lai số AE/2014/0001686 ngày 08 tháng 9 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận 10 Th phố H Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn số 1159/2017/KDTM-PT

Số hiệu:1159/2017/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 18/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về