Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi và vay tài sản số 92/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 92/2023/DS-PT NGÀY 28/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI VÀ VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 418/2022/TLPT-DS ngày 30/11/2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng góp hụi và vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 160/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2023/QĐ-PT ngày 13/01/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960 (có mặt).

Đa chỉ: Ấp Phú H, xã Phú N, huyện CL, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn:

1. Bà Từ Thị H, sinh năm 1958.

Đa chỉ: Ấp Phú H, xã Phú N, huyện CL, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà Từ Thị H: Bà Võ Thị Minh T, sinh năm 1964 (có mặt) (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 21/02/2023);

Đa chỉ: Tổ 3, ấp Hòa T, xã Long K, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

2. Ông Nguyễn Hùng D, sinh năm 1958 (xin vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp Phú H, xã Phú N, huyện CL, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Từ Thị H, ông Nguyễn Hùng D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo bản án sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:

Bà có tham gia chơi hụi do bà H, ông D làm chủ thảo như sau:

- Dây hụi thứ 01: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 9D): Hụi có lãi giá 1.000.000 đồng, khui ngày 01/02/2017, 03 tháng khui 01 lần, có 23 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 500.000 đồng. Dây hụi này bà góp được 19 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 18.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 02: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 18D): Hụi có lãi giá 1.000.000 đồng, khui ngày 02/02/2018, 03 tháng khui 01 lần, có 24 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 500.000 đồng, dây hụi này bà góp được 15 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 14.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 03: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 20D): Hụi có lãi giá 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 02/02/2018, 03 tháng khui 01 lần, có 23 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 500.000 đồng, dây hụi này bà góp được 15 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 14.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 04: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 11A): Hụi có lãi giá 1.000.000 đồng, khui ngày 15/4/2021, 01 tháng khui 01 lần, có 21 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 500.000 đồng, dây hụi này bà góp được 07 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 6.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 05: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 2A): Hụi có lãi giá 1.000.000 đồng, khui ngày 15/12/2020, 01 tháng khui 01 lần, có 27 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 500.000 đồng, dây hụi này bà góp được 11 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 10.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 06: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 18D): Hụi có lãi giá 1.000.000 đồng, khui ngày 15/8/2020, 01 tháng khui 01 lần, có 24 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 500.000 đồng, dây hụi này bà góp được 15 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 14.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 07: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 4D): Hụi có lãi giá 1.000.000 đồng, khui ngày 15/4/2020, 01 tháng khui 01 lần, có 27 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 500.000 đồng, dây hụi này bà góp được 20 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 19.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 08: (ký hiệu trong danh sách chơi hụi của bà H là 17D): Hụi có lãi giá 500.000 đồng, khui ngày 15/8/2020, 01 tháng khui 01 lần, có 27 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 250.000 đồng, dây hụi này bà góp được 15 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 7.250.000 đồng.

Ngoài ra, bà H, ông D còn nợ số tiền chưa giao hụi 7.200.000 đồng và vay mượn số tiền 20.000.000 đồng.

Tng cộng 08 dây hụi bà H, ông D còn nợ bà số tiền 105.750.000 và 27.200.000 đồng còn thiếu. Tổng cộng là 132.950.000 đồng. Nay bà yêu cầu bà H, ông D phải có nghĩa vụ liên đới trả tiền 01 lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

* Bị đơn bà Từ Thị H trình bày:

Bà thừa nhận lời trình bày của bà L là đúng sự thật. Bà L có tham gia góp hụi do bà và chồng là ông D làm chủ thảo.

Đến nay bà L đã góp tiền của dây hụi ký hiệu 9D là 10.180.000 đồng, của dây hụi ký hiệu 18D là 9.290.000 đồng, của dây hụi ký hiệu 20D là 8.020.000 đồng, của dây hụi ký hiệu 11A là 4.110.000 đồng, của dây hụi ký hiệu 2A là 6.710.000 đồng, của dây hụi ký hiệu 18D là 8.280.000 đồng, của dây hụi ký hiệu 4D là 13.260.000 đồng và của dây hụi ký hiệu 17D là 4.860.000 đồng. Tiền 08 dây hụi còn nợ là 64.110.000 đồng và 27.200.000 còn thiếu. Tổng cộng là 91.310.000 đồng.

Bà thừa nhận để tạo lòng tin cho các hụi viên khi rủ họ tham gia chơi các dây hụi do bà làm chủ thảo, bà có thỏa thuận: “hụi có lãi (góp hụi sống sẽ được hưởng tiền hụi chết), bà cam kết chịu trách nhiệm đi gom tiền của các hụi viên chưa hốt hụi (hụi sống) và choàng tiền hụi cho các hụi viên chậm góp hụi (hụi chết) nếu những người này chậm thực hiện nghĩa vụ đóng hụi để giao tiền cho hụi viên hốt hụi và nhận tiền hoa hồng của dây hụi theo thỏa thuận” nhưng đến nay không thực hiện được cam kết này là do một phần ảnh hưởng do dịch bệnh Covid 19, quá nhiều các hụi viên đã hốt hụi không góp lại tiền hụi chết theo thỏa thuận nên bà không còn khả năng choàng hụi, dẫn đến phải ngưng hụi nên vợ chồng bà xin trả lại số tiền bà L đã góp hụi và tiền thiếu là 91.310.000 đồng, xin trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

* Bị đơn ông Nguyễn Hùng D trình bày:

Ông thừa nhận vợ chồng ông, bà còn nợ bà L số tiền góp hụi là 64.110.000 đồng và 27.200.000 còn thiếu. Tổng cộng là 91.310.000 đồng; xin trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

* Bản án dân sự sơ thẩm số 160/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh Tiền Giang, đã căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 226, 227, 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 463, 466, 280, 288, 471 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;Điều 23 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L.

Buộc bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà L số tiền góp hụi còn nợ là 105.750.000 đồng và số tiền 27.200.000 đồng còn thiếu. Tổng cộng là 132.950.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà H, ông D chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và khoảng thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí:

Miễn án phí cho bà H, ông D.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của đương sự.

* Ngày13/9/2022, bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D có đơn kháng cáo yêu cầu: xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của ông bà, chỉ đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền vốn gốc là 91.310.000 đồng * Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự trình bày:

- Bà Võ Thị Minh T – đại diện theo ủy quyền của bà Từ Thị H trình bày: Bà H thay đổi yêu cầu kháng cáo, yêu cầu tách quan hệ tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” đối với số tiền 20.000.000 đồng thành một vụ kiện khác; bà H chỉ đồng ý trả cho bà L tiền vốn gốc hụi.

- Bà Nguyễn Thị L không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của bà H và ông D, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu:

+ Về tố tụng: Kể từ ngày thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Bà H và ông D kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bà H và ông D là không có cơ sở để chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên và những quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét xác định mối quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Ti phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Nguyễn Hùng D vắng mặt, nhưng có đơn xin vắng mặt. Căn cứ vào Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông D.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D; Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Đối với tiền vay:

Bà H và bà L thống nhất bà H còn nợ bà L số tiền 27.200.000 đồng, bà H xác định vợ chồng bà đồng ý trả số tiền này cho bà L. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Võ Thị Minh T – đại diện theo ủy quyền của bà Từ Thị H yêu cầu tách quan hệ tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” đối với số tiền này thành một vụ kiện khác, là không có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết 02 quan hệ tranh chấp là tranh chấp Hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản; đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm, bà L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[2.2] Đối với tranh chấp hụi:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L xác định bà tham gia 08 dây hụi do vợ chồng bà Từ Thị H, ông Nguyễn Hùng D làm chủ hụi; vợ chồng bà H và ông D còn nợ bà số tiền hụi đã đóng là 105.750.000 đồng chưa trả.

Ti khoản 7 Điều 4 và điểm b khoản 2 Điều 16, khoản 4 Điều 18 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, biêu, phường quy định: “Họ có lãi là họ mà thành viên được lĩnh họ nhận các phần họ khi đến kỳ mở họ và phải trả lãi cho các thành viên khác. Thành viên trong họ có lãi có các nghĩa vụ trả lãi cho các thành viên chưa lĩnh họ khi được lĩnh họ. Nghĩa vụ của chủ họ: nộp thay phần họ của thành viên nếu đến kỳ mở họ mà có thành viên không góp phần họ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Tại phiên tòa sơ thẩm (Bút lục 27), bà H tha nhận: các dây hụi bà L tham gia là hụi có lãi và bà L đã góp hụi được tổng cộng 105.750.000 đồng là tính hụi có lãi sau khi trừ tiền hoa hồng (gồm hụi đã góp và tiền lãi hụi). Bà H và ông D xác định bà L đã góp tổng cộng tiền hụi gốc là 64.110.000 đồng và chỉ đồng ý trả cho bà L số tiền vốn hụi là 64.110.000 đồng. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L yêu cầu vợ chồng bà H, ông D trả tiền hụi có lãi số tiền 105.750.000 đồng và bản án sơ thẩm đã xử buộc vợ chồng bà H, ông D trả cho bà L số tiền 105.750.000 đồng, là có cơ sở. Bởi lẽ, lãi suất trong hụi do các thành viên của dây hụi thỏa thuận thấp hơn so với lãi suất theo quy định.

Bà H cho rằng do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19, nhiều hụi viên đã hốt hụi không góp lại tiền hụi chết, nên bà không còn khả năng choàng hụi dẫn đến phải ngưng hụi. Bà H thừa nhận: vợ chồng bà thỏa thuận với các hụi viên tham gia là cam kết chịu trách nhiệm đi gom tiền hụi của các hụi viên chưa hốt và choàng tiền hụi chết nếu những hụi viên chậm góp hụi (hụi chết) để giao cho hụi viên được hốt hụi và vợ chồng bà được nhận tiền hoa hồng của dây hụi theo thỏa thuận. Xét thấy: việc bà H, ông D chỉ đồng ý trả tiền vốn hụi cho bà L số tiền 64.110.000 đồng là vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận nêu trên. Bà H và ông D không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì chứng minh các hụi viên đã hốt hụi không góp tiền hụi chết cho vợ cH ông bà. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T – đại diện theo ủy quyền của bà H thừa nhận: vợ chồng bà H, ông D cho đến nay chưa có khởi kiện ai trong các hụi viên đã hốt hụi không góp lại tiền hụi chết cho vợ chồng ông bà.

Ngoài ra, bà H còn cho rằng giữa bà và bà L đã họp mặt thỏa thuận thống nhất cho vợ chồng bà được trả tiền hụi vốn và trả dần (Bút lục 27), nay bà L yêu cầu trả vốn và lãi hụi là gian lận, gian trá. Bà L không thừa nhận có thỏa thuận này và không đồng ý cho bà H và ông D trả vốn hụi và trả dần (Bút lục 27). Bà H và ông D cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh có sự thống nhất thỏa thuận này.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà H, ông D và bà T – đại diện theo ủy quyền của bà H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bà H và ông D là không có cơ sở để chấp nhận; án sơ thẩm đã xử là có căn cứ, cần thiết giữ nguyên.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Do bà H và ông D là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi; nên căn cứ vào Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử quyết định miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho ông D và bà H.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 226, 227, 244 của Bộ luật T tụng dân sự; các Điều 463, 466, 280, 288, 471 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 23 của Ngh định s 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 160/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L.

Buộc bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà L số tiền góp hụi còn nợ là 105.750.000 đồng và số tiền 27.200.000 đồng còn thiếu. Tổng cộng là 132.950.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà H, ông D chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và khoảng thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí cho bà H, ông D.

2.2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho bà H, ông D.

3. Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi và vay tài sản số 92/2023/DS-PT

Số hiệu:92/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về