TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 81/2022/DS-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Trong ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 107/2022/TLST- DS, ngày 19 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Lê Thị Tuyết N, sinh năm 1984; Địa chỉ: Tổ 01, ấp G, xã N, huyện C, tỉnh Tây Ninh;
* Bị đơn: Bà Võ Thị Thu H, sinh năm 1973 và ông Nguyễn Thế V, sinh năm 1972; cùng trú tại: Tổ 3, ấp G, xã N, huyện C, tỉnh Tây Ninh;
Bà N, ông V, Bà H vắng mặt có đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Bà Lê Thị Tuyết N trình ày Do chòm xóm quen biết nên Bà N có tham gia chơi hụi do Bà H làm chủ hụi như sau:
Hụi 5.000.000 đồng, hụi 20 ngày khui một lần, khui ngày 12-9-2016 âm lịch nhằm ngày 12-10-2016 dương lịch, hụi gồm 45 phần, Bà N tham gia 01 phần, đóng được 28 kỳ thì Bà H tuyên bố bể hụi không giao hụi. Tổng số tiền Bà N đã đóng hụi vốn là 101.620.000 đồng, trừ nợ trước đó 52.000.000 đồng còn lại 49.620.000 đồng, lãi do Bà H tự tính là 38.380.000 đồng.
Ngày 03-5-2018 âm lịch nhằm ngày 16-6-2018 dương lịch, hai bên gút nợ tổng số tiền vốn Bà N đóng hụi cho Bà H còn lại là 49.620.000 đồng, lãi thỏa thuận là 38.380.000 đồng, số tiền Bà H, ông V còn nợ lại bà là 88.000.000 đồng.
Bà N khởi kiện yêu cầu ông V, Bà H có trách nhiệm trả cho bà số tiền 88.000.000 (tám mươi tám triệu) đồng, trong đó vốn là 49.620.000 đồng, lãi 38.380.000 đồng. Trong giấy gút nợ ghi tên T là tên ở nhà của chị N.
* Theo ị đơn Bà Võ Thị Thu H và ông Nguyễn Thế V trình bày:
Bà H trình bày bà thống nhất với những dây hụi Bà N (tên nhà là T) tham gia do bà làm chủ hụi. Số tiền gút trong giấy nợ hụi là do bà viết và hai bên thỏa thuận, do bà đang chấp hành án nên không có khả năng trả lãi cho Bà N, bà xin không tính lãi chỉ đồng ý trả vốn còn lại là 49.620.000 đồng. Bà đồng ý cùng chồng bà là ông Nguyễn Thế V trả số tiền nợ vốn, xin tiền lãi không trả.
Ông V trình bày, việc Bà H vợ ông chơi hụi cùng các hụi viên ông không biết. Tại thời điểm đó ông đi làm, từ sáng đến tối mới về, khi nhiều người đến nhà ông đòi nợ thì ông mới biết nên ông xin hòa giải và xin không tính lãi đối với số tiền nợ Bà N.
Tại Toà vị Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong thời gian chuẩn bị xét xử theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký tại phiên tòa đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng có căn cứ theo quy định của pháp luật về việc tống đạt cho các đương sự cũng như xác định tư cách tham gia tố tụng và trình tự, thủ tục tại phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật Dân sự; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP, ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 147, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của U ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Thị Tuyết N, buộc Bà Võ Thị Thu H và ông Nguyễn Thế V cùng có trách nhiệm trả số tiền nợ hụi vốn và lãi cho Bà N là 88.000.000 (tám mươi tám triệu) đồng.
Các bên đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Các bên đương sự vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt tại tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228, 238 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự là phù hợp.
[2] Về nội dung vụ án:
Bà Lê Thị Tuyết N khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Thế V và Bà Võ Thị Thu H trả số tiền là 88.000.000 đồng; trong đó tiền hụi vốn còn lại là 49.620.000 đồng; lãi thỏa thuận là 38.380.000 đồng, không yêu cầu tính lãi nữa.
Hội đồng xét xử xét thấy: Các khoản nợ hụi giữa Bà Lê Thị Tuyết N và Bà Võ Thị Thu H là các bên đã thống nhất về thời gian mở hụi, bể hụi, giấy gút nợ hụi do Bà H viết cho Bà N, lời trình bày của Bà H là những chứng cứ để xem xét giải quyết vụ án.
[2.1] Đối với số tiền nợ hụi trên Bà H thống nhất với Bà N theo biên nhận nợ do Bà H viết, tổng số tiền hụi vốn Bà N đã đóng cho các dây hụi sau khi các bên khấu trừ hụi chết và sống thì Bà H còn nợ lại hụi vốn là 49.620.000 đồng. Hụi bể nên Bà N yêu cầu trả số nợ hụi vốn, Bà H đồng ý trả số tiền nợ hụi vốn này cho Bà N là phù hợp theo quy định nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[2.2] Đối với yêu cầu của Bà N buộc vợ chồng ông Nguyễn Thế V và Bà Võ Thị Thu H cùng có nghĩa vụ trả nợ, Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc Bà H làm chủ hụi và mở nhiều dây hụi trong một thời gian dài với nhiều sổ sách tính toán, hàng tháng, khi khui hụi thì có nhiều người đến nhà kêu hụi, hốt hụi cũng như việc Bà H đi gom hụi hàng ngày. Trong khi ông V và Bà H là vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sống chung nhà, thu nhập hàng tháng của Bà H cũng là cùng ông V lo cho cuộc sống gia đình, cuộc sống chung. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với Bà H tại tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh thì ông V cũng có cam kết bán toàn bộ tài sản chung của vợ chồng để trả cho tất cả bà con tham gia hụi còn nợ, một số giấy nợ của những người tham gia hụi của Bà H thì ông V có ký xác nhận nợ đồng ý trả nợ thay cho Bà H nên cần buộc vợ chồng ông V, Bà H cùng có trách nhiệm trả nợ cho Bà N là phù hợp.
Từ những phân tích trên có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bà N đối với số tiền nợ hụi của Bà H và ông V là phù hợp.
[2.3]. Xét yêu cầu tính lãi của Bà N đối với số tiền nợ hụi, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bên khi gút số tiền nợ hụi trong giấy nợ không thỏa thuận lãi suất cụ thể là bao nhiêu, chỉ ghi lãi đồng ý trả tổng cộng là 38.380.000 đồng, lãi này phù hợp không quá mức quy định 20%/năm của số tiền gốc là 49.620.000 đồng tính đến ngày xét xử nên chấp nhận số tiền lãi trên. Bà H xin không trả lãi vì đang chấp hành án không có khả năng trả lãi nhưng Bà N không đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận cho lời trình bày của Bà H về phần lãi.
Như vậy, Bà H, ông V phải trả tổng số tiền vốn và lãi cho Bà N tính đến ngày xét xử là 49.620.000 đồng tiền nợ hụi + 38.380.000 đồng tiền lãi thành 88.000.000 (tám mươi tám triệu) đồng [4] Về án phí: Căn cứ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Ông V và Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Bà Ngâu không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 468, 469 và 471 Bộ luật Dân sự; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP, ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 147, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của U ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Thị Tuyết N về tranh chấp hợp đồng góp hụi đối với Bà Võ Thị Thu H và ông Nguyễn Thế V.
Buộc Bà Võ Thị Thu H và ông Nguyễn Thế V cùng có trách nhiệm liên đới trả cho Bà Lê Thị Tuyết N tổng số tiền nợ hụi là 88.000.000 tám mươi tám triệu) đồng. Trong đó tiền nợ hụi vốn là 49.620.000 đồng; lãi 38.380.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người bị thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng người bị thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự.
2/ Về án phí:
Bà H, ông V phải chịu 4.400.000 (bốn triệu bốn trăm ngàn) đồng án phí sơ thẩm dân sự.
Bà N không phải chịu án phí sơ thẩm dân sự theo quy định. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí Bà N đã nộp 2.200.000 (hai triệu hai trăm ngàn) đồng, tại biên lai thu số 0017316 ngày 19-4-2022, Bà N được nhận lại số tiền trên.
Trường hợp, bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho các bên đương sự biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 81/2022/DS-ST
Số hiệu: | 81/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về