Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 68/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 68/2023/DS-PT NGÀY 28/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử Ph thẩm công khai vụ án thụ lý số: 475/2022/TLPT-DS ngày 10 tháng 11 năm 2022 về việc “tranh chấp hợp đồng góp hụi”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 85/2022/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử Ph thẩm số 495/2022/QĐ-PT ngày 21 tháng 11 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thanh T, sinh năm 1988. Địa chỉ: Số 337/8, ấp Th, xã Th, huyện Ch, tỉnh Long An (Có mặt).

- Bị đơn: Bà Võ Thụy Kim Th, sinh năm 1987. Địa chỉ: Số 703/8, ấp Th, xã Th, huyện Ch, tỉnh Long An (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Quí Ph, sinh năm 1983. Địa chỉ: Số 703/8, ấp Th, xã Th, huyện Ch, tỉnh Long An (Vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của ông Ph:

1. Ông Bùi Duy Th, sinh năm: 1978 (Có đơn xin vắng mặt).

2. Ông Lê Văn Ph, sinh năm: 1975 (Có đơn xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Số 62, Ngô Quyền, phường 7, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền ngày 08/8/2022).

- Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Bùi Thanh T trình bày:

Bà có tham gia chơi hụi do bà Võ Thụy Kim Th làm chủ hụi, các dây hụi cụ thể như sau:

Dây hụi thứ 1: Hụi 10.000.000 đồng/tháng, khui ngày 14/10/2021 (âm lịch), hụi có 15 hụi viên, bà tham gia một phần, bà đóng được 08 kỳ với số tiền là 52.790.000 đồng.

Dây hụi thứ 2: Hụi 10.000.000 đồng/tháng, khui ngày 29/02/2022 (âm lịch), hụi có 12 hụi viên, bà tham gia một phần, bà đóng được 03 kỳ với số tiền là 20.875.000 đồng.

Quá trình chơi hụi bà đã đóng tiền cho bà Th hai dây hụi trên với tổng số tiền là 73.665.000 đồng, đến ngày 16/6/2022 bà Th tuyên bố vỡ hụi. Do bà Th tổ chức chơi hụi có hoa hồng, mỗi khi các hụi viên hốt hụi đều trả cho bà Thoa số tiền hoa hồng là 3.000.000 đồng, việc tổ chức chơi hụi của bà Th là có thu thập để trang trải cuộc sống gia đình. Vì vậy bà yêu cầu bà Th cùng chồng là ông Trần Quí Ph phải liên đới thanh toán cho bà số tiền vốn hụi còn nợ là 73.665.000 đồng, không yêu cầu tính lãi, trả một lần số tiền nợ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn bà Võ Thụy Kim Th trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của bà Bùi Thanh T, bà có tổ chức cho bà T tham gia hai dây hụi như bà T trình bày, đây là hụi có hoa hồng ai hốt hụi thì trả cho bà tiền hoa hồng tùy theo số lượng hụi viên và số tiền hụi mà các bên tham gia. Quá trình tổ chức hụi, do bà phải choàng hụi cho các hụi viên khác nên mất khả năng thanh toán, bà đã tuyên bố vỡ hụi và hiện còn nợ bà Bùi Thanh T số tiền là 73.665.000 đồng.

Việc bà tổ chức cho các hụi viên tham gia chơi hụi ông Ph không biết nên đây là nợ riêng của bà, không liên quan đến ông Ph. Trường hợp bà T đồng ý chỉ yêu cầu bà trả nợ, không yêu cầu ông Ph thì bà đồng ý trả cho bà T trong thời hạn 03 tháng sẽ thanh toán hoàn tất.

Ông Bùi Duy Th là người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của ông Ph trình bày: Mặc dù ông Ph và bà Th là vợ chồng nhưng việc góp hụi giữa bà Th và nguyên đơn thì ông Ph hoàn toàn không biết, việc góp hụi là việc cá nhân của bà Th không nhằm mục đích phục vụ sinh hoạt chung trong gia đình, không tạo bất kỳ tài sản nào trong thời gian bà Th chơi hụi. Khi vỡ hụi, các hụi viên tìm đến nhà, ông Ph mới biết sự việc. Vì vậy, bà Th phải tự chịu trách nhiệm, ông Ph không chịu trách nhiệm liên đới cùng bà Th trả nợ cho nguyên đơn.

Bà Huỳnh Thị Ngọc S là người làm chứng trình bày: Bà Võ Thụy Kim Th và ông Trần Quí Ph là vợ chồng đã tổ chức chơi hụi từ nhiều năm nay ở xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành. Ông Ph có trực tiếp thu tiền của các hụi viên góp hụi và cùng bà Thoa đi giao tiền hốt hụi cho các hụi viên.

Ti Bản án dân sự sơ thẩm số 85/2022/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng góp hụi của bà Bùi Thanh T đối với bà Võ Thụy Kim Th và ông Trần Quí Ph.

Buộc bà Võ Thụy Kim Th và ông Trần Quí Ph phải liên đới thanh toán cho bà Bùi Thanh Tuyền số tiền vốn hụi còn nợ là 73.665.000 (Bảy mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi lăm nghìn) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Bà Võ Thụy Kim Th và ông Trần Quí Ph phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 3.683.250 đồng.

Bà Bùi Thanh T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bà Tuyền được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.840.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007970 ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và hướng dẫn thi hành án.

Ngày 03/10/2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp Ph thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông Trần Quí Ph phải liên đới trả tiền cùng với bị đơn bà Võ Thụy Kim Th.

Ti phiên tòa Ph thẩm:

- Đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph, ông Lê Văn Ph, ông Bùi Duy Th có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa Ph thẩm, tại đơn trình bày ý kiến ngày 16/02/2023, trình bày: Ông Ph và bà Th là vợ chồng, tuy nhiên ông Ph thường xuyên đi làm xa, ít khi ở nhà nên hoàn toàn không biết việc bà Th góp hụi với nhiều người. Ngoài ra, công việc ông Ph có thu nhập khá, kinh tế gia đình ổn định, vây nên chi phí sinh hoạt trong gia đình hoàn toàn không có sự đóng góp từ bà Th. Từ khi kết hôn, ông Ph, bà Th chỉ có tài sản chung là căn nhà do cha mẹ cho, ngoài ra không có tài sản chung nào có giá trị. Như vậy, việc bà Th chơi hụi không tạo ra bất kỳ tài sản chung nào cho gia đình. Khi vụ việc bể hụi mọi người tìm đến nhà đòi thì ông Ph mới biết. Từ các ý kiến nêu trên và căn cứ các Điều 30, 37 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Quí Ph.

- Nguyên đơn bà Bùi Thanh T trình bày: Trong quá trình bà tham gia chơi hụi cùng bà Th, ông Ph nhiều lần thu tiền hụi từ bà và các hụi viên khác nên việc ông Ph nói không biết việc bà Th tổ chức chơi hụi là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Kháng cáo của ông Ph đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự Ph thẩm. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Thấy rằng, bà Võ Thụy Kim Th và ông Ph là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, việc bà Th tổ chức chơi hụi là trong thời kỳ hôn nhân và diễn ra trong thời gian dài. Theo xác nhận của các hụi viên cùng tham gia chơi hụi thì ông Ph có tham gia thu tiền hụi của các hụi viên. Ông Ph cho rằng bà Th sử dụng tiền hụi cho mục đích cá nhân là không có cơ sở, vì trong thời gian này bà Th và ông Ph sống chung với nhau và vẫn làm ăn chung, việc bà Th tổ chức chơi hụi là nhằm phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nên ông Ph phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà T số tiền hụi 73.665.000 đồng là phù hợp. Ông Bùi Duy Th là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph kháng cáo không đồng ý liên đới cùng bà Võ Thụy Kim Th trả nợ hụi là không có cơ sở. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự Ph thẩm.

Bị đơn bà Võ Thụy Kim Th đã được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mắt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

[2] Xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph:

Xét, tại phiên tòa Ph thẩm, nguyên đơn bà Bùi Thanh T yêu cầu bị đơn bà Võ Thụy Kim Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph liên đới trả số tiền hụi còn nợ là 73.665.000 đồng. Bị đơn bà Võ Thụy Kim Th thừa nhận bà có tổ chức chơi hụi và hiện tại còn nợ bà T số tiền hụi là 73.665.000 đồng, bà đồng ý trả bà T số tiền hụi còn nợ nêu trên. Bà Th cho rằng, việc bà tổ chức cho các hụi viên tham gia chơi hụi ông Ph không biết nên đây là nợ riêng của bà, không liên quan đến ông Ph. Đồng thời, người đại diện theo ủy quyền của ông Ph trình bày việc góp hụi là việc cá nhân của bà Th không nhằm mục đích phục vụ sinh hoạt chung trong gia đình, không tạo bất kỳ tài sản nào trong thời gian bà Th chơi hụi nên bà Th phải tự chịu trách nhiệm, ông Ph không chịu trách nhiệm liên đới cùng bà Th trả nợ cho nguyên đơn.

Thấy rằng, việc bà Th tổ chức chơi hụi cho các hụi viên trong đó có bà T được thực hiện trong thời kỳ bà Th và ông Ph vẫn là quan hệ vợ chồng hợp pháp. Ông Ph cho rằng bà Th tổ chức chơi hụi là việc cá nhân của bà Th, bà Th không sử dụng số tiền trên đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình và cũng không tạo bất kỳ tài sản nào trong thời gian bà Th tổ chức chơi hụi nhưng ông Ph không có chứng cứ chứng minh. Hơn nữa, ông Ph cũng không chứng minh giữa ông và bà Th có thỏa thuận việc thu chi trong gia đình nên trường hợp nợ của bà Th vẫn phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết buộc bà Th và ông Ph phải liên đới trả cho bà T số tiền còn nợ là 73.665.000 đồng là có căn cứ. Ông Ph kháng cáo nhưng không cung cấp được, tài liệu chứng cứ mới nên không có cơ sở xem xét.

[3] Từ những nhận định trên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Trần Quí Ph. Quan điểm phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp nên được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự Ph thẩm: Ông Trần Quí Ph phải chịu án phí dân sự Ph thẩm do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quí Ph;

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 85/2022/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 288, 357, 468 và 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 27, 30, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án 

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng góp hụi của bà Bùi Thanh T đối với bà Võ Thụy Kim Th và ông Trần Quí Ph.

Buộc bà Võ Thụy Kim Th và ông Trần Quí Ph phải liên đới thanh toán cho bà Bùi Thanh T số tiền vốn hụi còn nợ là 73.665.000 (Bảy mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi lăm nghìn) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Bà Võ Thụy Kim Th và ông Trần Quí Ph phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 3.683.250 đồng.

Bà Bùi Thanh T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bà T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.840.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007970 ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

3. Về án phí dân sự Ph thẩm: Ông Trần Quí Ph phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự Ph thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008095 ngày 11/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Ông Ph đã nộp xong.

4. Bản án Ph thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 68/2023/DS-PT

Số hiệu:68/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về