Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 52/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 52/2023/DS-PT NGÀY 10/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 10 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 08/2023/TLPT-DS ngày 01 tháng 02 năm 2023 về việc tranh chấp “Hợp đồng góp hụi”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 111/2022/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 20/2023/QĐPT-DS ngày 01 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1957 (Có mặt);

Nơi cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện CM, tỉnh AG.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Bùi Quốc N là Luật sư của Chi nhánh Công ty luật TNHH một thành viên A-T thuộc Đoàn luật sư Thành phố Cần Thơ (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn Kh, sinh năm 1961; Nơi cư trú: Âp BP, xã BPX, huyện CM, tỉnh AG.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Hồ Trung Ch, sinh năm 1970, nơi cư trú: Ấp Long Bình, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang là người đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền ngày 27/02/2023 (Có mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Bà Võ Thị Ti, sinh năm 1958;

Nơi cư trú: Ấp BP, xã BPX, huyện CMi, tỉnh AG.

Người đại diện hợp pháp của bà Võ Thị Ti: Ông Hồ Trung Ch, sinh năm 1970, nơi cư trú: Ấp Long Bình, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang là người đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền ngày 27/02/2023 (Có mặt).

3.2 Chị Huỳnh Ngọc Ch (Cẩm Tú), sinh năm 1979 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp BP, xã BPX, huyện CM, tỉnh AG.

3.3 Ông Nguyễn Văn N (Năm N), sinh năm 1955 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp BP, xã BPX, huyện CM, tỉnh AG.

4. Người kháng cáo: Ông Huỳnh Văn Kh là bị đơn và bà Võ Thị Ti là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ng trình ày:

Do là người cùng địa phương nên à có tham gia chơi dây hụi do ông Huỳnh Văn Kh làm chủ hụi và bà là người trực tiếp chơi hụi, chầu hụi, trong giấy hụi ghi tên “5 N” là chồng của bà.

Dây hụi 1.000.000 đồng bắt đầu khui ngày 17/8AL/2019, gồm 21 thành viên mỗi tháng khui 1 lần, bà tham gia 03 phần. Bà đã chầu đủ 16 lần đến lần thứ 17 thì ngưng nên ông Kh còn nợ của bà (16.000.000 đồng x 3) 48.000.000 đồng. Trong thời gian chơi hụi, ông Kh là chủ hụi và bà Ti (vợ ông Kh) cùng chung sống, làm ăn chung với ông Kh, chị Ch (Tú) là con gái ông Kh cùng đi gom hụi. Bà yêu cầu ông Huỳnh Văn Kh, bà Võ Thị Ti, chị Huỳnh Ngọc Ch (Cẩm Tú) có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền 48.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn là ông Huỳnh Văn Kh và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị Ti ủy quyền cho ông Hồ Trung Ch trình bày: Ông Kh và bà Ti là vợ chồng, trước đây ông Kh có làm chủ hụi nhưng hai đầu hụi bà Ng yêu cầu ông Kh trả số tiền 48.000.000 đồng thì ông Kh không làm chủ hụi. Ông Kh và bà Ti không đồng ý trả cho bà Ng số tiền 48.000.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Huỳnh Ngọc Ch (Cẩm Tú) vắng mặt không có lý do và không gởi ý kiến trình ày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ông Nguyễn Văn N trình bày: Ông là chồng của bà Ng, ông thống nhất theo yêu cầu khởi kiện của bà Ng và xin vắng mặt khi Tòa án hòa giải, xét xử.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 111/2022/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang đã tuyên xử:

Căn cứ vào: Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 15, 29 Nghị định 144/2006/CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về họ, hụi, hiêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Công nhận hợp đồng góp hụi giữa bà Nguyễn Thị Ng với ông Huỳnh Văn Kh. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ng.

Buộc ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Ng số tiền 48.000.000 đồng.

Đình chỉ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Ng yêu cầu chị Huỳnh Ngọc Ch (Cẩm Tú) liên đới cùng với ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti trả số tiền trên.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ng yêu cầu tính lãi đối với số tiền 48.000.000 đồng.

Án phí DSST: Ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti phải chịu 2.400.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị Ng không phải chịu án phí.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo và thi hành án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26 tháng 10 năm 2022 ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti nộp Đơn kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung Bản án số: 111/2022/DS-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới.

c đương sự khác trong vụ án không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.

Ý kiến của Luật sư bảo vệ cho nguyên đơn: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Kh và bà Ti. Giữ nguyên bản án sơ thẩm, buộc ông Kh, bà Ti cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Ng số tiền 48.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến: Tại giai đoạn phúc thẩm những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và tuân thủ đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định về phiên tòa phúc thẩm, đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử, thành phần HĐXX, thư ký phiên tòa và thủ tục phiên tòa theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 phúc xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 111/2022/DS-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang về án phí. Ông Kh và bà Ti không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm. Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không sửa, đề nghị giữ nguyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm và được Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt, niêm yết bản án vào ngày 12/10/2022. Đến ngày 26/10/2022 ông bà nộp Đơn kháng cáo là trong thời hạn luật định nên đủ cơ sở để xem xét yêu cầu kháng cáo của ông Kh và bà Ti theo trình tự phúc thẩm.

Ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti ủy quyền cho ông Hồ Trung Ch theo Giấy ủy quyền ngày 27/02/2023. Sự ủy quyền của các đương sự phù hợp với Điều 138 và Điều 140 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.

[2] Về kháng cáo của ông Kh và bà Ti, xét thấy bà Ng và ông Kh có xác lập hợp đồng góp hụi do ông Kh làm chủ và bà Ng là hụi viên của dây hụi 1.000.000 đồng khởi sự vào ngày 17/8AL/2019 gồm 21 thành viên, bà Ng tham gia 3 phần, hụi khui được 16 lần đến lần thứ 17 thì ngưng nên ông Kh còn nợ bà Ng số tiền (16.000.000đ x 3) 48.000.000đ. Bà Ng khởi kiện yêu cầu ông Kh trả số tiền 48.000.000 đồng. Ông Kh ủy quyền cho ông Hồ Trung Ch không thừa nhận còn nợ bà Ng số tiền 48.000.000 đồng. Căn cứ danh sách hụi viên ngày 17/8AL/2019 ghi tên hụi viên “Bác 5 N” là tên chồng của bà Ng và Biên bản hòa giải ngày 18/01/2021 được lập tại Văn phòng ấp BP, xã BPX, huyện CMi, tỉnh AG bà Võ Thị Ti (thay mặt ông Kh) trình bày

Hiện nay do hoàn cảnh nên trước mắt vợ chồng tôi đã cắm bảng án đất nền nhà. au khi án được thì sẽ chi trả cho hụi viên”.

Người làm chứng là bà Huỳnh Thị Thu Kiều và Trần Văn Màu là những người cùng tham gia chơi hụi do ông Kh làm chủ đều xác định bà Ng có cùng tham gia chơi hụi, sau đó ông Kh ngưng hụi. Tại Biên bản xác minh ngày 21/7/2022 thể hiện ông Kh và bà Ti là vợ chồng, gia đình ông Kh có đứng ra làm chủ nhiều dây hụi tại địa phương. Do đó, có cơ sở xác định ông Kh còn nợ bà Ng số tiền 48.000.000 đồng.

Về trách nhiệm trả nợ, bà Ng yêu cầu ông Kh, bà Ti liên đới trả số tiền 48.000.000 đồng. Xét thấy, ông Kh và bà Ti là vợ chồng hợp pháp và hôn nhân của ông bà thực tế vẫn còn tồn tại, việc ông Kh làm chủ nhiều dây hụi và bà Ti cũng có tham gia góp hụi, giao hụi cho các hụi viên. Việc làm ăn của ông Kh và bà Ti nhằm sinh lợi, phục vụ nhu cầu thiết yếu trong gia đình là phù hợp với Điều 27 và khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Nay bà Ng yêu cầu ông Kh và bà Ti liên đới trả số tiền 48.000.000 đồng là có cơ sở, phù hợp Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 18 và Điều 23 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính Phủ quy định về hụi, họ, iêu, phường.

Như vậy, án sơ thẩm đã uộc ông Kh và bà Ti cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Ng số tiền 48.000.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Ông Kh và bà Ti kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí: Ông Kh và bà Ti phải chịu 2.400.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng ông à là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử thống nhất miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Kh và bà Ti. Ông Kh và bà Ti không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của ông Kh và bà Ti, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 111/2022/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới về án phí như đề xuất của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tại phiên tòa.

Các phần khác của bản án sơ thẩm các đương sự không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị nên được giữ nguyên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào:

- Khoản 2 Điều 308 và Điều 315 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 468 và Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy an Thường vụ Quốc hội.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 111/2022/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang về án phí.

3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ng. Buộc ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Ng số tiền 48.000.000 đồng.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ng yêu cầu chị Huỳnh Ngọc Ch (Cẩm Tú) liên đới cùng với ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti trả số tiền trên.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ng yêu cầu tính lãi đối với số tiền 48.000.000đ.

4. Về án phí: Ông Huỳnh Văn Kh và bà Võ Thị Ti được miễn án phí dân sự sơ thẩm, ông Kh và bà Ti không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Kể từ ngày ên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ên phải thi hành án chưa thi hành đầy đủ khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 52/2023/DS-PT

Số hiệu:52/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về