Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 42/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 42/2023/DS-PT NGÀY 06/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 06 tháng 02 năm 2023, tại Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 351/2022/TLPT-DS ngày 24 tháng 10 năm 2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng góp hụi”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 210/2022/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 432/2022/QĐ-PT ngày 13 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

Ông Đặng Văn Th (C), sinh năm 1978. (có mặt) Địa chỉ: ấp H, xã T, huyện C, Tiền Giang.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Trương Văn H, sinh năm 1970. (vắng mặt)

2.2. Bà Ngô Thị V, sinh năm 1975. (có mặt) Cùng địa chỉ: ấp H, xã T, huyện C, Tiền Giang.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Phan Thị Th, sinh năm 1981.(xin vắng mặt) bút lục số 24 Địa chỉ: ấp H, xã T, huyện C, Tiền Giang.

4. Người kháng cáo: bị đơn Ngô Thị V.

Theo bản án sơ thẩm, 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 01/7/2022 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông Đặng Văn Th trình bày:

Ông Th có tham gia 03 dây hụi do vợ chồng ông H và bà V làm đầu thảo hụi cụ thể như sau:

+ Dây thứ 01: Hụi 5.000.000 đồng khui ngày 15/5/2015 âm lịch, hụi mùa năm khui 03 lần, gồm 24 phần, ông Th tham gia 01 phần, tên trong danh sách hụi số thứ tự số 06 “Vợ C”, hụi mãn vào năm 2023, đã đóng hụi sống được 17 kỳ với số tiền hụi sống mỗi lần 4.000.000 đồng là 68.000.000 đồng, nếu tính hụi chết số tiền 85.000.000 đồng.

+ Dây thứ 02: Hụi 5.000.000 đồng khui ngày 10/7/2018 âm lịch, hụi năm khui 04 lần, gồm 17 phần, ông Th tham gia 02 phần, tên trong danh sách hụi số thứ tự số 02 “Vợ C”, hi mãn vào ngày 10/10/2022 âm lịch, đã đóng hụi sống được 10 kỳ với số tiền hụi sống mỗi lần 4.000.000 đồng là 80.000.000 đồng nếu tính hụi chết số tiền 100.000.000 đồng.

+ Dây thứ 03: Hụi 5.000.000 đồng khui ngày 10/4/2017 âm lịch, hụi năm khui 04 lần, gồm 19 phần, ông Th tham gia 01 phần, tên trong danh sách hụi số thứ tự số 17 “Vợ C”, hụi mãn vào ngày 10/01/2022 âm lịch, đã đóng hụi sống được 15 kỳ với số tiền hụi sống mỗi lần 4.000.000 đồng là 60.000.000 đồng, nếu tính hụi chết số tiền 75.000.000 đồng.

Ba dây hụi này ông Th đã đóng tiền hụi sống đến tháng 01/2021 âm lịch thì vợ chồng ông H và bà V tuyên bố bể hụi không khui tiếp, sau đó bà V có trả được 34.000.000 đồng và bà V có đưa 01 chiếc xe môtô hiệu Honda CB 125R cho ông Th để bán dùm 25.000.000 đồng để trừ số nợ hụi của ông Th, nhưng do ông Th tìm người bán nhưng không được nên ông Th giao trả lại chiếc xe này cho bà V.

Do đó, nay ông Th yêu cầu vợ chồng ông H và bà V có nghĩa vụ liên đới hoàn trả số tiền nợ hụi số tiền vốn đã đóng của 03 dây hụi là 208.000.000 đồng trừ đi 34.000.000 đồng bà V trả, hiện còn nợ 174.000.000 đồng yêu cầu trả 01 lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Tại tòa ông Th xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện không yêu cầu ông H và bà V liên đới trả số tiền 86.000.000 đồng (Tám mươi sáu triệu đồng).

Ti bản tự khai ngày 28/9/2022 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn bà Ngô Thị V trình bày:

Bà V thừa nhận ông Th có tham gia 03 dây hụi do bà V làm đầu thảo hụi cụ thể như sau:

+ Dây thứ 01: Hụi 5.000.000 đồng khui ngày 15/5/2015 âm lịch, hụi mùa năm khui 03 lần, gồm 24 phần, ông Th tham gia 01 phần, tên trong danh sách hụi số thứ tự số 06 “Vợ C”, hụi mãn vào năm 2023, đã đóng hụi sống được 17 kỳ với số tiền hụi sống với số tiền 46.700.000 đồng.

+ Dây thứ 02: Hụi 5.000.000 đồng khui ngày 10/7/2018 âm lịch, hụi năm khui 04 lần, gồm 17 phần, ông Th tham gia 02 phần, tên trong danh sách hụi số thứ tự số 02 “Vợ C”, hi mãn vào ngày 10/10/2022 âm lịch, đã đóng hụi sống được 10 kỳ với số tiền hụi sống 62.200.000 đồng.

+ Dây thứ 03: Hụi 5.000.000 đồng khui ngày 10/4/2017 âm lịch, hụi năm khui 04 lần, gồm 19 phần, ông Th tham gia 01 phần, tên trong danh sách hụi số thứ tự số 17 “Vợ C”, hụi mãn vào ngày 10/01/2022 âm lịch, đã đóng hụi sống được 15 kỳ với số tiền hụi sống được 43.250.000 đồng.

Do các hụi viên không đóng hụi nên bà V không khui tiếp, sau đó bà V có trả 34.000.000 đồng và có giao chiếc xe môtô hiệu Honda CB 125R cho ông Th để bán dùm 25.000.000 đồng để trừ số nợ hụi của ông Th, nhưng do ông Th không tìm người bán được.

Nay bà V đồng ý trả số tiền vốn của 03 dây hụi ông Th đã đóng với số tiền theo yêu cầu của ông Th là 208.000.000 đồng trừ đi 34.000.000 đồng bà V trả, hiện còn nợ 174.000.000 đồng. Nhưng bà V yêu cầu trừ đi chiếc xe đã đưa cho ông Th bán số tiền 25.000.000 đồng, còn lại bà V đồng ý trả cho ông Th 149.000.000 đồng, xin được trả dần cho ông Th.

Còn việc tham gia tổ chức đầu thảo hụi chỉ có bà V Tham gia, ông H chồng bà V không cùng tham gia nên ông H không phải chịu trách nhiệm trả số tiền hụi này cho ông Th.

Ti bản tự khai ngày 28/9/2022 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trương Văn H trình bày:

Ông H là chồng của bà V việc bà V làm đầu thảo hụi ông H không cùng tham gia, ông Th tham gia chơi hụi góp tiền hụi cho bà V như thế nào thì ông H không biết rõ, nhưng đến khi bể hụi nhiều người đến đòi nợ thì ông H mới biết, ông H đã bán tài sản của ông H để trả một phần nợ cho bà V. Nay ông H không đồng ý cùng liên đới với bà V để trả số tiền nợ hụi theo yêu cầu của ông Th.

* Bản án dân sự sơ thẩm số: 210/2022/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã áp dụng Điều 471, khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự; điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, 227, 228, 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 18, 22 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Đặng Văn Th về việc không yêu cầu ông Trương Văn H và bà Ngô Thị V có nghĩa vụ liên đới trả số tiền nợ hụi 86.000.000 đồng (Tám mươi sáu triệu đồng).

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Th.

Buộc ông Trương Văn H và bà Ngô Thị V có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Đặng Văn Th số tiền hụi 174.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 15/2022/QĐ-BPKCTT ngày 09/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện C.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 28/9/2022 bị đơn Ngô Thị V có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử theo hướng bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì ông Đặng Văn Th đã nhiều lần lấy tiền và tài sản của gia đình bà V để trừ tiền góp hụi cho bà.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bà Ngô Thị V yêu cầu kháng cáo xin ông Th cho bà trả lại số tiền hụi ông Th đóng các phần hụi là 152.150.000 đồng trừ 34.000.000 đồng bà đã trả và giá trị chiếc xe 25.000.000 đồng còn lại trả 95.150.000 đồng. Nguyên đơn Đặng Văn Th (C) vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nhưng đồng ý trừ tiếp tiền giá trị chiếc xe mô tô đã sang tên cho ông là 25.000.000 đồng.

Các đương sự không thoả thuận được giải quyết tranh chấp.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký tòa án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm chuẩn bị nghị án đều được tiến hành đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng đúng luật định.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án, Kiểm sát viên nhận định. Toà sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Th. Buộc bà Ngô Thị V, ông Trương Văn H trả cho ông Đặng Văn Th 174.000.000 đồng tiền nợ hụi là phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm ông Th đồng ý trừ chiếc xe mô tô cho bà V 25.000.000 đồng. Do đó đề nghị HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà V. Áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS sửa án sơ thẩm 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xem xét. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà phúc thẩm. Nghe các đương sự trình bày, tranh luận. Ý kiến phát biểu nhận xét và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Xét thấy:

[1] Bị đơn Ngô Thị V thực hiện quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định và đúng các quy định tại điều 271, 272, 273, 276 của BLTTDS nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bị đơn Trương Văn H đã được triệu tập dự phiên toà lần thứ 2 nhưng vắng mặt không lý do, còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Thị Thuý có đơn xin vắng mặt nên căn cứ vào Điều 228 và khoản 3 Điều 296 BLTTDS tiến hành xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn Đặng Văn Th (C) khởi kiện yêu cầu bị đơn Trương Văn H, Ngô Thị V trả lại tiền hụi mà ông tham gia 3 dây hụi do ông H, bà V làm chủ hụi vào các năm 2015, 2017 và 2018. Đây là tranh chấp hợp đồng góp hụi thuộc thẩm quyền và phạm vi giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS Điều 166, 280, 351, 357, 471 của BLDS năm 2015 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 và Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

[3] Về nội dung tranh chấp và yêu cầu giải quyết: Nguyên đơn Đặng Văn Th nộp đơn khởi kiện vào ngày 01/7/2022 yêu cầu bị đơn Trương Văn H, Ngô Thị V phải hoàn trả cho ông Th số tiền hụi ông đã góp là 260.000.000 đồng cho ông H, bà V cụ thể như sau:

Dây hụi mở ngày 15/5/2015 AL có 24 phần, mỗi phần 5.000.000 đồng, khui hụi một năm 03 kỳ. Ông tham gia 01 phần, đã đóng hụi sống được 17 kỳ bằng 85.000.000 đồng.

Dây hụi mở ngày 10/4/2017 AL có 19 phần, mỗi phần 5.000.000 đồng, một năm khui hụi 04 kỳ. Ông tham gia 01 phần, đã đóng hụi sống được 15 kỳ với số tiền 75.000.000 đồng.

Dây hụi mở ngày 10/7/2018 AL có 17 phần, mỗi phần 5.000.000 đồng, một năm khui 04 kỳ. Ông tham gia 02 phần, đã đóng hụi sống được 10 kỳ bằng 100.000.000 đồng.

Tại phiên toà sơ thẩm ông Th (C) thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện chỉ đòi ông H, bà V trả lại ông số tiền hụi sống ông đã đóng của dây hụi thứ nhất mở ngày 15/5/2015 AL là 68.000.000 đồng, dây hụi thứ 2 mở ngày 10/4/2017 AL là 60.000.000 đồng, dây hụi thứ 3 mở ngày 10/7/2018 AL là 80.000.000 đồng.

Tng cộng 208.000.000 đồng, trừ số tiền ông H, bà V đã trả 34.000.000 đồng còn lại 174.000.000 đồng và ông Th xin rút lại 01 phần yêu cầu đòi ông H, bà V trả 86.000.000 đồng tiền nợ hụi (bút lục số 68).

[5] Bị đơn Trương Văn H trình bày: Ông không tham gia làm chủ hụi với bà V. Ông không biết việc ông Th tham gia góp hụi cho bà V nên không đồng ý liên đới nghĩa vụ trả nợ cho ông Th.

Án sơ thẩm xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Th. Buộc Trương Văn H, Ngô Thị V có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Đặng Văn Th 174.000.000 đồng tiền nợ hụi.

Đình chỉ giải quyết yêu cầu của ông Đặng Văn Th đòi ông H, bà V liên đới trả 86.000.000 đồng. Không đồng ý với quyết định án sơ thẩm bà V kháng cáo.

[6] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Ngô Thị V nhận thấy: Bà V thừa nhận có cho ông Đặng Văn Th (theo danh sách hụi viên ghi tên “vợ C”) tham gia 03 dây hụi do bà làm chủ hụi, ông Th đã đóng hụi sống được 208.000.000 đồng thì ngưng do hụi bể, sau đó bà có trả cho ông Th 34.000.000 đồng và có giao chiếc xe mô tô hiệu CB 125R do bà đứng tên trị giá 25.000.000 đồng cho ông Th để trừ nợ, do đó bà chỉ đồng ý trả cho ông Th 149.000.000 đồng (bút lục số 68)

[7] Nguyên đơn Đặng Văn Th thừa nhận bà V có giao cho ông chiếc xe mô tô hiệu Honda CB 125R bán dùm giá 25.000.000 đồng, ông Th đã nhận xe của bà V giao từ tháng 8/2021 và hiện nay ông khai đã sang tên cho ông đang quản lý (bút lục số 68). Như vậy xem như ông Th đã chấp nhận mua xe mô tô hiệu Honda CB 125R của bà V giá 25.000.000 đồng nên bà V yêu cầu trừ số tiền này vào số nợ hụi mà bà phải trả cho ông Th là phù hợp với quy định của pháp luật nhưng Toà sơ thẩm không xem xét giải quyết mà nhận định rằng “quá trình giải quyết các bên không có đơn yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Nếu có tranh chấp sẽ xem xét bằng vụ án khác” là trái với khoản 2 Điều 92 của BLTTDS. Tại tòa phúc thẩm ông Th đồng ý trừ giá trị chiếc xe mô tô ông đã nhận của bà V là 25.000.000 đồng nên ghi nhận.

[8] Về nghĩa vụ trả nợ tiền hụi cho ông Đặng Văn Th như án sơ thẩm buộc là có căn cứ. Bởi ông Trương Văn H là chồng của bà V cùng chung sống với nhau hợp pháp tại nhà ông bà. Bà V xác nhận việc bà làm chủ hụi ông H biết nhưng ông không ý kiến hay phản đối. Tiền hoa hồng (đầu thảo) mỗi lần hụi viên hốt hụi bà được 1.500.000 đồng. Số tiền này bà sử dụng vào việc mua sắm và chi tiêu sinh hoạt trong gia đình (bút lục số 76) nên chiếu theo Điều 27, 30, 37 của Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “1. Vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các Điều 24, 25, 26 của Luật này. 2. Vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”.

Do đó ông Trương Văn H phải có nghĩa vụ liên đới với bà V trả nợ hụi cho ông Th theo Điều 288 của BLDS năm 2015. Án sơ thẩm xử buộc ông H có nghĩa vụ liên đới với bà V trả tiền hụi cho ông Th, nhưng ông H không kháng cáo xem như ông H đã chấp nhận với quyết định của án sơ thẩm.

Từ những phân tích trên nhận thấy yêu cầu kháng cáo của bà V là có cơ sở một phần nên được chấp nhận, sửa một phần quyết định án sơ thẩm. Buộc bà V, ông H trả cho ông Th 149.000.000 đồng tiền hụi như đã phân tích.

[9] Về quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong toả tài sản quyền sử dụng đất của ông Trương Văn H nhằm đảm bảo nghĩa vụ thi hành án là có cơ sở nên vẫn giữ nguyên.

[10] Đối với phần yêu cầu khởi kiện ban đầu của ông Th đòi bà V, ông H trả 260.000.000 đồng nhưng được ông Th rút lại tại phiên tòa sơ thẩm còn lại 208.000.000 đồng và trừ vào số tiền 34.000.000 đồng bà V đã trả nên chỉ đòi trả 174.000.000 đồng. Như vậy thực chất phần yêu cầu của ông Th rút lại theo số liệu thể hiện (260.000.000 đồng – 34.000.000 đồng – 174.000.000 đồng) là 52.000.000 đồng không phải 86.000.000 đồng như Tòa sơ thẩm xác định nên cần sửa chữa lại cho đúng.

[11] Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định tại Điều 147 và 148 BLTTDS.

Xét ý kiến phân tích và đề nghị của đại diện VKS phù hợp với nhận định của Toà án nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 270, 293, khoản 2 Điều 308, Điều 309 và Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Ngô Thị V. Sửa một phần quyết định bản án dân sự sơ thẩm số 210/2022/DS-ST ngày 28/9/2022 của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Căn cứ vào Điều 5, khoản 2 Điều 26, 147, 148 điểm c khoản 1 Điều 217, 228, 244, 296 của BLTTDS.

Căn cứ vào Điều 166, 280, 288, 351, 357, 471 của BLDS năm 2015. Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006, Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ.

Căn cứ vào Điều 27, 30, 37 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 26 và 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khoá 14 quy định về án phí lệ phí Toà án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Th (C). Buộc bà Ngô Thị V và ông Trương Văn H có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Đặng Văn Th 149.000.000 đồng tiền nợ hụi.

Kể từ ngày ông Đặng Văn Th có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà Ngô Thị V, ông Trương Văn H chậm thi hành án thì hàng tháng phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 của BLTTDS năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Tiếp tục giữ nguyên quyết định áp dụng biên pháp khẩn cấp tạm thời số 15/2022/QĐ-BPKCTT ngày 09/8/2022 của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang cho đến khi cơ quan có thẩm quyền thay đổi huỷ bỏ theo quy định của pháp luật.

3. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Th đòi bà Ngô Thị V và Trương Văn H liên đới nghĩa vụ trả cho ông Th số tiền 52.000.000 đồng tiền nợ hụi.

4. Về án phí:

- Bà Ngô Thị V và ông Trương Văn H phải chịu 7.450.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Bà Ngô Thị V không phải chịu án phí DSPT.

- Trả lại bà V 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0010148 ngày 28/9/2022.

- Trả lại ông Th 6.500.000 tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0010009 ngày 08/7/2022.

* Cả 2 biên lai đều của Chi cục THADS huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 42/2023/DS-PT

Số hiệu:42/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về