Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 21/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TPTN, TỈNH TN

BẢN ÁN 21/2023/DS-ST NGÀY 23/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 23 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân TPTN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 324/2022/TLST-DS ngày 14 tháng 10 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 3 năm 2023; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị Hồng G, sinh năm 1980; địa chỉ: Số nhà 03 đường 13, hẻm 85, đường BL, khu phố NT, phường NS, TPTN, tỉnh TN.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1976; địa chỉ: Số nhà 274 đường BL, khu phố N Tr, phường NS, TPTN, tỉnh TN.

Chị G; bà H có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07 tháng 10 năm 2022, lời khai bổ sung trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phan Thị Hồng G trình bày:

Chị G có tham gia hụi của bà Nguyễn Thị H làm chủ thảo. Sau khi bà H bị kết án 16 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số:

22/2022/HSST ngày 08-4-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TN và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số: 433/2022/HSPT-QĐ ngày 24-6-2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Tại cơ quan điều tra, chị G đã chứng minh nộp cho bà H số tiền 71.100.000 đồng và Tòa án đã tuyên buộc bà H có nghĩa vụ thanh toán (trả) cho chị G số tiền lừa đảo chiếm đoạt 27.650.000 đồng. Chị G khởi kiện yêu cầu bà H trả tiền hụi còn lại 43.450.000 đồng và chị G không yêu cầu tính lãi.

Tại biên bản lấy lời khai bị đơn bà H trình bày:

Bà H thừa nhận chị G có tham gia hụi nhưng hiện tại bà H không nhớ, nay chị G yêu cầu trả số tiền 43.450.000 đồng, bà H không đồng ý. Ngoài ra bà H không yêu cầu nào khác.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TPTN:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

+ Về nội dung: Căn cứ vào các Điều 468 và Điều 471 của Bộ luật Dân sự;

khoản 7 Điều 4; Điều 10; Điều 18 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19-02- 2019 của chính phủ về hụi, họ, biêu, phường; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Hồng G về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị H trả số tiền nợ hụi 43.450.000 đồng. Ghi nhận chị G không yêu cầu tính lãi; giải quyết án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nguyên đơn chị Phan Thị Hồng G, bị đơn bà Nguyễn Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Phan Thị Hồng G, bà Nguyễn Thị H là có căn cứ theo quy định tại các Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ hụi 43.450.000 đồng nên đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng góp hụi được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự Điều 471 của Bộ luật Dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại địa chỉ: Số nhà 274 đường BL, khu phố N Tr, phường NS, TPTN, tỉnh TN nên căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPTN, tỉnh TN.

[3] Xét nguyên đơn yêu cầu bà Nguyễn Thị H trả số tiền hụi gốc còn nợ 43.450.000 đồng đồng, thấy rằng:

Chị G cung cấp sổ hụi có ghi thông tin về hụi do chính bà H viết ra;

Thống kê tiền bị can Nguyễn Thị H chiếm đoạt trong dây hụi số 1, hụi 5.000.000 đồng, khui ngày 15-01-2019 AL (10-02-2019 DL; Các biên bản lấy lời khai của cơ quan điều tra Công an điều tra tỉnh TN thể hiện số tiền 71.100.000 đồng. Như vậy, căn cứ vào lời khai của chị G, bà H và sổ hụi, danh sách do cơ quan điều tra công an tỉnh TN lập: Chị G đã góp được 18 lần X số tiền 3.950.000 đồng = 71.100.000 đồng.

Mặt khác, bà H khai, khi đăng hụi bà H không ghi ra giấy hụi, không nhớ đang bao nhiêu người chơi, bao nhiêu tiền, không nhớ thời gian và địa điểm đăng hụi. Bà H đã đăng hụi nhưng bà không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ, hợp pháp, chứng minh bà H khai đăng hụi cho chị G là không có thật.

[4] Cách tính hụi như sau: 71.100.000 đồng -27.650.000 đồng (số tiền bà H chiếm đoạt trong bản án hình sự) = 43.450.000 đồng.

Từ các nhận định, phân tích trên nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị G yêu cầu bà H thanh toán (trả) số tiền nợ hụi gốc 43.450.000 đồng. Ghi nhận chị G không yêu cầu tính lãi.

[5] Từ phân tích trên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TPTN, tỉnh TN buộc bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm thanh toán (trả) cho chị Phan Thị Hồng G số tiền 43.450.000 đồng.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Chị Phan Thị Hồng G không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.182.500 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 468 và Điều 471 của Bộ luật Dân sự; khoản 7 Điều 4; Điều 10;

Điều 18 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19-02-2019 của Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường;

Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Hồng G đối với bà Nguyễn Thị H về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.

Buộc bà Nguyễn Thị H có nghĩa vụ thanh toán (trả) cho chị Phan Thị Hồng G số tiền nợ hụi là 43.450.000 đồng (Bốn mươi ba triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng. Ghi nhận chị G không yêu cầu tính lãi.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

2.1. Chị Phan Thị Hồng G không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho chị G số tiền tạm ứng án phí 1.086.000 (Một triệu không trăm tám mươi sáu nghìn) đồng theo biên lai số 0001403 ngày 14-10-2022 của Chi cục thi hành án dân sự TPTN, tỉnh TN.

2.2. Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.182.500 (Hai triệu một trăm tám mươi hai nghìn năm trăm) đồng.

3. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Báo cho các đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 21/2023/DS-ST

Số hiệu:21/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về