Bản án về tranh chấp hợp đồng gia công số 997/2023/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 997/2023/KDTM-PT NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

Trong các ngày 07 và 28 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 86/2023/TLPT-KDTM ngày 24 tháng 7 năm 2023 về: “Tranh chấp hợp đồng gia công”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2023/KDTM-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3292/2023/QĐ-PT ngày 07 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH A1 Địa chỉ: Lô A đường số D, KCN X, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thu T; địa chỉ: 2 Ấp M, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy ủy quyền số 0420/ATN ngày 10/4/2020).

2. Bị đơn: Công ty TNHH MTV H3 Địa chỉ: 1 Đ, Phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H; địa chỉ: E Quốc lộ E, Ấp C, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (theo Giấy ủy quyền ngày 16/5/2023).

3. Người kháng cáo: Công ty TNHH A1 là nguyên đơn.

(Tại phiên tòa: Bà T và ông H có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nội dung bản án sơ thẩm thể hiện như sau:

* Tại Đơn khởi kiện ngày 10/4/2020; các Đơn khởi kiện bổ sung ngày 23/02/2022, 08/6/2022, 09/6/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Công ty TNHH A1 do bà Lê Thu T làm người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Từ tháng 8/2019 đến tháng 10/2019, Công ty TNHH AI (sau đây gọi tắt là Công ty A1) ký hợp đồng với Công ty TNHH MTV H3 (sau đây gọi tắt là Công ty H4) may gia công mặt hàng khăn lông cho Công ty A1.

Ngày 06/8/2019 Công ty H4 đến Công ty A1 nhận hàng, sau khi có số lượng thì đến ngày 14/8/2019 Công ty H4 mới ký Hợp đồng số 01/2019 ATHENA-HG với Công ty A1. Theo Hợp đồng thì bên Công ty H5 của Công ty A1 1.692 kg khăn bán thành phẩm để gia công. Đơn giá là 1.800 VND/kg khăn vắt sổ hai bên, 2.500 VND/kg chạy 1 kim xung quanh khăn (đơn giá chưa bao gồm 10% VAT), giá trên bao gồm chi phí cắt, may, đóng gói và vận chuyển hai đầu. Thời gian giao hàng trong vòng 20-25 ngày (trừ ngày lễ và chủ nhật) tùy số lượng cụ thể, tính từ ngày ký hợp đồng.

Ngày 13/9/2019 Công ty H6 lại thành phẩm cho Công ty A1 1.434,32 kg (Công ty H4 còn giữ lại 257,68 kg gối đầu cuốn chiếu trên chuyền để giữ công nhân) và Công ty H4 tiếp tục nhận thêm 4.038,05 kg (số lượng hàng hóa này và những lần nhận hàng tiếp theo không có thỏa thuận trong hợp đồng tuy nhiên theo như đại diện nguyên đơn trình bày, đây là hợp đồng gia công nên giao nhận hàng hóa bằng lời nói bằng hình thức gối đầu). Nhân viên Công ty H4 là anh Trần Đức H1 là đại diện làm việc với Công ty A1 và nhận tiền gia công. Anh H1 nhiều lần hứa hợp đồng tiếp theo Công ty H4 chưa gửi được sau khi đã nhận hàng là do giám đốc Công ty H7 công tác xa nên sẽ chuyển sau.

Ngày 25/9/2019 Công ty H6 thành phẩm lại là 941,82 kg và tiếp tục nhận thêm 1.516,06 kg. Ngày 28/9/2019 Công ty H6 thành phẩm lại là 1.634,80 kg và tiếp tục nhận thêm 1.115,70 kg. Ngày 16/10/2019 Công ty H6 thành phẩm lại là 1.025,50 kg và tiếp tục nhận thêm 198,80 kg. Ngày 12/11/2019 Công ty H6 lại là 866,10 kg. Như vậy, tổng cộng hàng Công ty H4 đã nhận của Công ty A1 là 8.561,15 kg nhưng do sơ suất lúc cộng trừ nên Công ty A1 đã bỏ sót không cộng 198,8 kg hàng vào nên khi đối chiếu công nợ Công ty A1 ghi tổng số hàng là 8.362,35 kg (do lỗi của Công ty A1 nên Công ty A1 xác nhận chỉ kiện tổng số hàng là 8.362,35 kg) và đã giao lại thành phẩm là 5.902,54 kg.

Quá trình kiểm tra hàng không đạt yêu cầu, nên ngày 04/10/2019 Công ty A1 đã trả lại cho Công ty H4 là 1.306,92 kg hàng và ngày 12/11/2019 trả 842,12 kg. Tổng cộng đa tra là 2.149,04 kg.

Như vậy, Công ty H4 còn giữ của Công ty A1 là 4.608,85 kg hàng bán thành phẩm (khăn còn công đoạn may 2 đường viền ở 2 đầu khăn nữa là thành phẩm). Số tiền gia công khăn tạm tính đến ngày 14/11/2019 theo số liệu bên gia công đã nhận hàng là 75.123.900 đồng. Công ty H4 đã tạm ứng tổng cộng 70.000.000 đồng. Từ ngày 14/11/2019 cho đến nay, nguyên đơn đã nhiều lần liên hệ với Công ty H4 về việc giao trả hàng thành phẩm nhưng không có kết quả.

Ngày 10/02/2020, Công ty A1 đã gửi thông báo đến Công ty H4 với nội dung như sau:

1. Đến hết ngày 29/02/2020 nếu Công ty H4 không giao đủ số hàng 4.608,85 kg khăn đạt chất lượng cho Công ty A1, thì Công ty A1 sẽ không nhận lô hàng trên nữa, mà Công ty A1 yêu cầu Công ty H4 phải bồi thường cho Công ty A1 số hàng trên bằng tiền với giá bình quân là 250.000đồng/kg khăn, tương đương với số tiền là 1.152.000.000 đồng.

2. Công ty H4 phải trả cho Công ty A1 02 máy may do anh H1 ký nhận ngày 01/10/2019 để may hàng cho Công ty A1. Mỗi máy may trị giá 20.000.000 đồng, tương đương với 02 máy là 40.000.000 đồng.

Cho đến nay, Công ty H4 vẫn không thanh toán cho Công ty A1. Do vậy, Công ty A1 khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty H8 số tiền 1.152.000.000 đồng, cụ thể: 4.608,85 kg khăn x 250.000 đồng (đơn giá chưa gia công, tính theo giá nội địa). Đơn giá 250.000 đồng/kg là giá thấp nhất có lợi cho bị đơn theo Bản giải trình ngày 24/12/2020 của đại diện nguyên đơn theo Hợp đồng số 01/2019 ATHENA-HG ngày 14/8/2019 và tiền lãi chậm thanh toán 10%/năm tính từ ngày 01/3/2020 đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm là ngày 01/6/2023 là 1.152.000.000 đồng x 10%/năm x 34 tháng = 374.400.000 đồng. Tổng cộng số tiền nguyên đơn yêu cầu Công ty H4 thanh toán là 1.526.400.000 đồng. Yêu cầu bị đơn trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nguyên đơn xin rút yêu cầu buộc bị đơn phải trả lại 02 máy may.

* Bị đơn Công ty TNHH MTV H3 có ông Nguyễn Văn H là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Căn cứ vào Hợp đồng 01/2019 ATHENA-HG ngày 14/8/2019 ký kết giữa Công ty A1 (gọi tắt là bên A) và Công ty H4 (gọi tắt là bên B) đã quy định tại Điều 3 “bên A thanh toán số tiền của hợp đồng tại Điều 1 cho bên B trước ngày xuất hàng”. Tuy nhiên, bên A chỉ mới thanh toán cho bên B số tiền đợt 1 và bên B đã giao hàng tương ứng với số tiền bên A đã thanh toán, số hàng gia công còn lại bên A không chuyển tiền thì bên B không xuất hàng, hàng hiện nay vẫn còn (chưa tính thiệt hại tiền công nhân gia công, trả lương hàng tháng và tiền lưu kho bãi...).

Phần ghi thêm cho ông Trần Đức H1 tự ghi dưới Hợp đồng “nhận tiền và 02 máy may” không liên quan đến nội dung hợp đồng và không thông qua ý kiến của Giám đốc Công ty nên chúng tôi không chịu trách nhiệm. Hiện ông Trần Đức H1 (quản lý xưởng) không làm việc ở Công ty khoảng tháng 9/2019.

Vì vậy, chúng tôi không đồng ý toàn bộ nội dung khởi kiện của nguyên đơn. Chúng tôi sẽ phản tố yêu cầu Công ty A1 trả tiền công và tiền lưu kho bãi riêng và các thiệt hại phát sinh do thưa kiện.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2023/KDTM-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH A1 với bị đơn Công ty TNHH MTV H3 về việc yêu cầu bị đơn trả 02 (hai) máy may.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH A1 về việc buộc Công ty TNHH MTV H3 phải trả số tiền 1.526.400.000 (một tỷ năm trăm hai mươi sáu triệu bốn trăm nghìn) đồng theo Hợp đồng gia công hàng may mặc số 01/2019 ATHENA-HG ngày 14/8/2019.

3. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: là 57.792.000 (năm mười bảy triệu bảy trăm chín mươi hai nghìn) đồng Công ty TNHH A1 phải chịu, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí 28.946.667 (hai mươi tám triệu chín trăm bốn mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy) đồng theo hai Biên lai thu số 0020902 ngày 26/5/2020 và 0035763 ngày 15/6/2022 của Chi cục thi hành án Dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty TNHH A1 còn phải nộp thêm số tiền án phí là 28.845.333 (hai mươi tám triệu tám trăm bốn mươi lăm nghìn ba trăm ba mươi ba) đồng.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 07/6/2023 nguyên đơn Công ty A1 có đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

* Tại phiên tòa phúc thm:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty A1 là bà Lê Thu T đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án bản sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty H4 là ông Nguyễn Văn H đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử tại phiên tòa, cũng như việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn Công ty A1 còn trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận.

[2] Về kháng cáo của Công ty A1, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Xét, căn cứ Đơn khởi kiện ngày 10/4/2020, các Đơn khởi kiện bổ sung ngày 23/02/2022, 08/6/2022, 09/6/2022 và các tài liệu nguyên đơn đã nộp, có cơ sở xác định, việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của các cá nhân sau đây: Trần Đức H1 (CMND số 231279429 do Công an tỉnh G cấp ngày 23/5/2018, Đỗ Hải H2 (CCCD số 079095007698), Trần Hoàng N, Phạm Văn N1 (CCCD số 036090001702) và Đỗ Đức T1. Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành các thủ tục tố tụng cần thiết nhưng không có đủ thông tin nên không đưa các cá nhân này vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là phù hợp.

Xét, tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn Công ty H4 đưa ra yêu cầu phản tố gồm: Yêu cầu Công ty A1 nhận lại số lượng 01 tấn hàng mà Công ty H4 còn giữ, đồng thời buộc Công ty A1 phải trả số tiền gia công còn thiếu là 15.400.000 đồng; thanh toán tiền thuê bãi để giữ 01 tấn hàng là 100.000.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện bị đơn vẫn xác định Công ty H4 còn giữ 01 tấn hàng của Công ty A1. Theo đó, bị đơn thừa nhận đang giữ hàng hóa là đối tượng tranh chấp trong vụ án. Vì vậy, để có cơ sở giải quyết vụ án, cần thiết phải xem xét tình trạng và tiến hành xác định giá trị của hàng hóa mà bị đơn đang giữ để làm cơ sở xác định trách nhiệm của bị đơn (nếu có).

Xét, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Công ty A1 cung cấp Giấy giới thiệu số 02 ngày 13/9/2019, Giấy giới thiệu ngày 04/10/2019 là bản photo, nhưng Giấy giới thiệu số 08/2019 ngày 06/8/2019 và Giấy giới thiệu ngày 28/9/2019 là bản chính. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện của bị đơn xác nhận biểu mẫu của hai giấy giới thiệu này là đúng của Công ty H4 nhưng không xác định con dấu công ty là đúng, còn chữ ký thì cho rằng không phải của ông Huỳnh Bá Linh A và đề nghị Tòa án trưng cầu giám định. Vì vậy, để có cơ sở giải quyết vụ án, cần thiết phải tiến hành giám định các tài liệu này để làm cơ sở xác định trách nhiệm của bị đơn (nếu có).

Xét, tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn Công ty H4 mới đưa ra yêu cầu phản tố nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết và dành cho bị đơn quyền khởi kiện trong vụ án khác khi có đủ điều kiện theo quy định pháp luật, là phù hợp với quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, để đảm bảo giải quyết toàn diện vụ án thì cần thiết phải tiến hành thụ lý, giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn trong cùng một vụ án.

Từ những nhận định nêu trên, phù hợp với phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, việc thu thập chứng cứ và chứng minh của Tòa án cấp sơ thẩm là chưa được thực hiện đầy đủ là có lý do khách quan mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, nên cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Ngoài ra, sau khi thụ lý lại vụ án Tòa án cấp sơ thẩm cần căn cứ thông tin trên chứng minh nhân dân, căn cước công dân của Trần Đức H1, Đỗ Hải H2, Phạm Văn N1 để thu thập thông tin của các cá nhân này và xác minh thông tin liên quan đến phương tiện đã giao nhận hàng hóa mang Biển số 51C-666.94 tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm cơ sở giải quyết vụ án.

[3] Về án phí:

Căn cứ khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại nên đương sự kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; nghĩa vụ chịu án phí được xác định lại khi giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2023/KDTM-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm.

3. Hoàn trả cho Công ty TNHH A1 số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 2.000.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2022/0014226 ngày 09/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng gia công số 997/2023/KDTM-PT

Số hiệu:997/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về