Bản án về tranh chấp hợp đồng gia công số 496/2022/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 496/2022/KDTM-PT NGÀY 23/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

Ngày 23 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án về kinh doanh thương mại thụ lý số: 43/2022/TLPT-KDTM ngày 17/6/2022 về việc: “tranh chấp hợp đồng gia công” Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2022/KDTM-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3917/2022/QĐXX-PT ngày 18 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 8299/2022/QĐ-PT ngày 02/8/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Minh Anh G ; địa chỉ: 298 HL80, phường H B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Hoàng T là đại diện theo pháp luật - Có mặt.

2. Bị đơn: Công ty cổ phần Ngôi Sao T ; địa chỉ: Lô E19-20 đường số 12, Khu công nghiệp X, xã X, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Sơn D là đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 25/02/2022); địa chỉ liên lạc: E8/3 T, thị trấn T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh - Có mặt Người kháng cáo: Công ty cổ phần Ngôi Sao T ;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn kh i kiện ngày 19/5/2020 và trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, người đại diện của Công ty TNHH Minh Anh G là nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 21/10/2019 Công ty TNHH Minh Anh G (gọi tắt là Công ty Minh Anh G) và Công ty cổ phần Ngôi Sao T (gọi tắt là Công ty Ngôi Sao T) có ký với nhau Hợp đồng gia công số 01- 2019/NSTT-HPT để thực hiện gia công 3.650 sản phẩm với giá thành là 55.000 đồng/1 sản phẩm. Tổng giá trị đơn hàng là 200.750.000 đồng chưa bao gồm thuế VAT, dung sai số lượng đơn hàng +/-3%. Ngày 27/11/2019 Công ty Minh Anh G đã giao 3.651 sản phẩm đã hoàn thành cho Công ty Ngôi Sao T theo Hợp đồng số 01.

Căn cứ vào hóa đơn giá trị gia tăng số 0000100 ngày 07/01/2020 thì giá trị đơn hàng bao gồm thuế VAT là 220.885.500 đồng cho 3.651 sản phẩm (nhiều hơn 01 sản phẩm so với hợp đồng).

Ngày 30/12/2019 thông qua tài khoản cá nhân của ông Nguyễn Hoàng H thì Công ty Minh Anh G đã nhận số tiền 200.695.000 đồng. Do đó, đối với Hợp đồng số 01 này Công ty Ngôi Sao T còn nợ Công ty Minh Anh G số tiền 20.190.500 đồng.

Ngày 11/11/2019 Công ty Minh Anh G và Công ty Ngôi Sao T ký Hợp đồng gia công số 02-2019/NSTT-MG để thực hiện việc gia công 6.200 sản phẩm với giá thành là 55.000 đồng/1 sản phẩm. Tổng giá trị đơn hàng là 341.000.000 chưa bao gồm thuế VAT, dung sai số lượng đơn hàng +/-3%. Ngày 06/12/2019 Công ty Minh Anh G đã giao 6.250 sản phẩm đã hoàn thành cho Công ty Ngôi Sao T theo Hợp đồng số 02 này.

Căn cứ vào hóa đơn giá trị gia tăng số 0000101 ngày 07/01/2020 thì giá trị đơn hàng bao gồm thuế VAT là 375.402.500 đồng. Hợp đồng số 02 này Công ty Ngôi Sao T chưa thanh toán.

Cho đến nay, Công ty Ngôi Sao T chưa thanh toán bất cứ khoản tiền nào còn thiếu của hai hợp đồng nêu trên. Mặc dù, Công ty Minh Anh G đã liên hệ nhiều lần yêu cầu Công ty Ngôi Sao T thanh toán số tiền còn thiếu của hai hợp đồng nêu trên.

Do đó, Công ty Minh Anh G yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Ngôi Sao T thanh toán số tiền còn thiếu của 02 Hợp đồng nêu trên là 394.593.000 đồng và yêu cầu tính lãi đối với bị đơn do chậm trả tính từ ngày 07/01/2020 cho đến ngày 17/02/2022 theo mức lãi suất là 9,75%/năm (0,8125%/ tháng), làm tròn với số tiền là 80.151.000 đồng. Tổng cộng tiền còn thiếu và lãi do chậm trả là 474.744.000 đồng.

Ngoài ra, hai bên có giao dịch lần thứ 3 vào ngày 02/12/2019, cụ thể Công ty Ngôi Sao T có giao cho Công ty Minh Anh G nguyên phụ liệu để gia công 3.000 sản phẩm, tuy nhiên giữa các bên chưa có ký với nhau hợp đồng, hai bên chỉ mới bàn bạc, thỏa thuận miệng với nhau. Phía Công ty Minh Anh G đã giao cho Công ty Ngôi Sao T 869 sản phẩm thành phẩm, số sản phẩm còn lại cũng đã hoàn thiện xong nhưng do giữa các bên chưa thống nhất đơn giá nên Công ty Minh Anh G không giao số thành phẩm còn lại. Việc Công ty Ngôi Sao T cung cấp cho Tòa án bản hợp đồng số 03 cho Tòa án là hợp đồng giả. Hiện nay Công ty Minh Anh G chỉ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đối với hợp đồng số 01 và 02, riêng với lần giao dịch thứ 3 nếu Công ty Ngôi Sao T có khởi kiện thì phải cung cấp chứng cứ và phải còn thời hiệu khởi kiện theo quy định.

Tại bản tự khai ngày 30/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ tại cấp sơ thẩm, người đại diện Công ty cổ phần Ngôi Sao T là bị đơn trình bày:

Xác nhận là giữa Công ty Ngôi Sao T và Công ty Minh Anh G có ký với nhau 02 hợp đồng gia công số 01- 2019/NSTT-HPT ngày 21/10/2019 và số 02- 2019/NSTT-MG vào ngày 11/11/2019. Xác nhận Công ty Minh Anh G đã thực hiện hoàn tất việc giao đầy đủ số lượng sản phẩm vào ngày 26/11/2019 theo hợp đồng số 01 và vào ngày 06/12/2019 theo hợp đồng số 02 cho Công ty Ngôi Sao T.

Đối với Hợp đồng số 01 thì Công ty Ngôi Sao T còn thiếu Công ty Minh Anh G bao gồm thuế VAT số tiền 20.130.000 đồng.

Còn đối với Hợp đồng số 02 thì Công ty Ngôi Sao T còn thiếu Công ty Minh Anh G bao gồm thuế VAT số tiền 375.402.500 đồng.

Tổng cộng tiền còn thiếu của hai hợp đồng nêu trên tính tới ngày 07/01/2020 cho đến nay là 394.593.000 đồng.

Đồng thời, ngày 02/12/2019 Công ty Ngôi Sao T và Công ty Minh Anh G tiếp tục ký với nhau hợp đồng số 03-2019/NSTT-MG để thực hiện gia công 3.000 sản phẩm với giá thành 57.000 đồng/1 sản phẩm. Tổng giá trị đơn hàng là 171.000.000 đồng, chưa bao gồm thuế VAT, dung sai số lượng đơn hàng +/-3%, thời gian bên Công ty Minh Anh G phải giao sản phẩm cho Công ty Ngôi Sao T là ngày 12/12/2019. Tuy nhiên, đến nay Công ty Minh Anh G chỉ mới giao cho Công ty Ngôi Sao T là 869 sản phẩm. Số sản phẩm còn lại, Công ty Minh Anh G vẫn đang giữ, chưa giao cho Công ty Ngôi Sao T. Căn cứ số sản phẩm Công ty Minh Anh G đã giao cho Công ty Ngôi Sao T còn thiếu của hợp đồng số 03 là 54.486.300 đồng. Còn 2.131 sản phẩm theo hợp đồng số 03 thì Công ty Minh Anh G chưa giao cho Công ty Ngôi Sao T, giá mỗi sản phẩm bán ra thị trường là 399.000 đồng/sản phẩm. Do đó, giá trị số sản phẩm mà Công ty Minh Anh G đang giữ của Công ty Ngôi Sao T là 850.269.000 đồng. Đối với Hợp đồng số 03 này thì bị đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Công ty Ngôi Sao T xác nhận còn nợ số tiền 394.593.000 đồng, nhưng đối với tiền lãi chậm thanh toán thì Công ty Ngôi Sao T không đồng ý. Lý do Công ty Minh Anh G đang giữ lô hàng của hợp đồng số 03 của Công ty Ngôi Sao T là 850.269.000 đồng nên Công ty Ngôi Sao T không đồng ý thanh toán cho Công ty Minh Anh G, khi nào Công ty Minh Anh G giao trả toàn bộ sản phẩm còn đang giữ thì Công ty Ngôi Sao T sẽ thanh toán toàn bộ tiền gia công của cả 03 hợp đồng cho nguyên đơn.

Tại Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2022/KDTM-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH Minh Anh G đối với bị đơn Công ty cổ phần Ngôi Sao T về việc tranh chấp hợp đồng gia công.

Buộc bị đơn Công ty cổ phần Ngôi Sao T có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Công ty TNHH Minh Anh G số tiền còn thiếu của hợp đồng gia công số 01-2019/NSTT-HPT ngày 21/10/2019 và hợp đồng gia công số 02- 2019/NSTT-MG ngày 11/11/2019 là 394.593.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tính từ ngày 07/01/2020 đến ngày 17/02/2022 là 80.151.000 đồng, tổng số tiền là 474.744.000 đồng.

Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của đương sự.

Không đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ngày 04/3/2022 Công ty cổ phần Ngôi Sao T nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết giao dịch lần thứ 3 giữa Công ty cổ phần Ngôi Sao T và Công ty TNHH Minh Anh G trong cùng vụ án và không xem xét lỗi chậm thanh toán đối với Công ty cổ phần Ngôi Sao T .

* Tại phiên tòa Phúc thẩm:

Đại diện bị đơn trình bày: Bị đơn giữ nguyên nội dung đã nêu tại đơn kháng cáo, cụ thể là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết luôn giao dịch lần thứ 3 và không xem xét lỗi chậm thanh toán của bị đơn. Lý do kháng cáo là giữa bị đơn và nguyên đơn đã thực hiện với nhau hợp đồng 01, 02 và một giao dịch không có hợp đồng nhưng vẫn còn đang thực hiện, các giao dịch này là có mối quan hệ với nhau vì vậy yêu cầu cần phải giải quyết chung trong 1 vụ án một cách toàn diện, từ đó xác định nghĩa vụ của nguyên đơn còn phải giao cho bị đơn 2.131 sản phẩm có giá trị là 850.269.000 đồng nên bị đơn chưa phát sinh nghĩa vụ thanh toán đối với khoản nợ của nguyên đơn và không phải chịu tiền lãi chậm trả đối với khoản nợ này. Bị đơn không nộp bổ sung tài liệu chứng cứ mới. Ngoài ra bị đơn những nội dung khác của bản án sơ thẩm đã tuyên thì bị đơn không kháng cáo.

Đại diện nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Lý do các hợp đồng 01, 02 và giao dịch lần thứ 3 không có hợp đồng là hoàn toàn độc lập với nhau. Nguyên đơn thực hiện xong đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng 01 và 02, đối với giao dịch lần thứ 3 các bên chỉ thỏa thuận miệng không có hợp đồng và hiện nay bị đơn cũng đã khởi kiện nguyên đơn đối với giao dịch này; Tòa án nhân dân quận Bình Tân đã thụ lý và đang giải quyết theo quy định; chứng minh là thông báo thụ lý vụ án số 17/TB-TA ngày 16/03/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân. Do bị đơn vi phạm thời hạn thanh toán theo quy định tại các hợp đồng 01 và 02 nên phải chịu lãi suất chậm thanh toán như bản án sơ thẩm đã tuyên. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm.

Về nội dung: Xét đơn kháng cáo còn trong thời hạn kháng cáo, có hình thức đúng quy định. Nội dung yêu cầu kháng cáo mà bị đơn trình bày tại phiên tòa là không có cơ sở nên đề nghị HĐXX không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, lời trình bày của phía nguyên đơn và bị đơn, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án đúng theo thẩm quyền, xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án là đúng theo quy định của Pháp luật Tố tụng.

[2] Đơn kháng cáo của Công ty cổ phần Ngôi Sao T còn trong thời hạn kháng cáo, có hình thức và nội dung đúng quy định nên được chấp nhận.

[3] Về phạm vi xét xử phúc thẩm: Theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật tố tụng dân sự thì “Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”.

[4] Xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giải quyết giao dịch lần thứ 3 giữa nguyên đơn và bị đơn là không thuộc phạm vi xét xử của cấp phúc thẩm bởi lẽ giao dịch này chưa được một trong các bên yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thực hiện các thủ tục tố tụng như thụ lý yêu cầu, thu thập chứng cứ và nhận định trong phiên tòa sơ thẩm nên không thuộc phạm vi xét xử của cấp phúc thẩm như quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, do vậy Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn về nội dung này.

[5] Đối với kháng cáo của bị đơn không đồng ý trả lãi do chậm thanh toán cho nguyên đơn với lý do theo thỏa thuận tại giao dịch lần 3 thì nguyên đơn có nghĩa vụ giao cho bị đơn số lượng sản phẩm trị giá 850.269.000 đồng nên khi nào nguyên đơn giao trả toàn bộ sản phẩm thì bị đơn sẽ thanh toán toàn bộ tiền gia công còn thiếu của cả 03 lần giao dịch trong đó có 02 hợp đồng số 01 và 02 cho nguyên đơn, do vậy hiện nay bị đơn chưa có vi phạm thời hạn thanh toán.

[6] Hội đồng xét xử nhận thấy, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận có ký với nhau 02 Hợp đồng gia công số 01- 2019/NSTT-HPT ngày 21/10/2019 và Hợp đồng gia công số 02-2019/NSTT-MG ngày 11/11/2019, nội dung hợp đồng là để nguyên đơn thực hiện gia công sản phẩm cho bị đơn. Các bên xác nhận cả 02 hợp đồng này nguyên đơn đã thực hiện xong và giao đầy đủ sản phẩm cho bị đơn, bị đơn còn nợ tổng số tiền là 394.593.000 đồng đã bao gồm VAT. Về khoản nợ gốc của 02 hợp đồng thì tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn xác nhận không kháng cáo. Bản án sơ thẩm đã tuyên buộc bị đơn phải trả cho bị đơn toàn bộ khoản nợ gốc của 02 hợp đồng là phù hợp.

[7] Tại Điều 2 của hợp đồng gia công số 01 và 02 đều có quy định “Bên A thanh toán cho bên B như sau: Thanh toán cho bên B sau khi thanh lý (tất toán toàn bộ nguyên phụ liệu) trong vòng 30 ngày”. Các bên đều xác nhận hợp đồng 01 và 02 nguyên đơn đã thực xong và giao đầy đủ sản phẩm cho bị đơn vào ngày 26/11/2019 theo hợp đồng số 01 và vào ngày 06/12/2019 theo hợp đồng số 02. Do vậy, nguyên đơn xác định thời điểm tính lãi từ ngày 07/01/2020 tính đến ngày xét xử là phù hợp với thỏa thuận hai bên tại Điều 2 hợp đồng đã ký. Bản án sơ thẩm đã nhận định và không chấp nhận lý do bị đơn nêu ra để cho rằng chưa phát sinh nghĩa vụ thanh toán nên không phải chịu lãi suất; đồng thời chấp nhận yêu cầu tính lãi chậm thanh toán của nguyên đơn như trên là phù hợp, bị đơn kháng cáo không đồng ý trả lãi là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

[8] Đối với các phần khác của bản án sơ thẩm, bị đơn không có kháng cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

[9] Xét thấy các yêu cầu kháng cáo của bị đơn - Công ty cổ phần Ngôi Sao T không được chấp nhận, bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Công ty TNHH Minh Anh G là phù hợp nên giữ nguyên.

[10] Về án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo phải chịu án phí kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 148, Điều 293, khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 306 Luật Thương mại 2005; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần Ngôi Sao T , giữ nguyên bản án sơ thẩm:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH Minh Anh G đối với bị đơn Công ty cổ phần Ngôi Sao T về việc tranh chấp hợp đồng gia công.

Buộc bị đơn Công ty cổ phần Ngôi Sao T có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Công ty TNHH Minh Anh G số tiền còn thiếu của hợp đồng gia công số 01-2019/NSTT-HPT ngày 21/10/2019 và hợp đồng gia công số 02- 2019/NSTT-MG ngày 11/11/2019 là 394.593.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tính từ ngày 07/01/2020 đến ngày 17/02/2022 là 80.151.000 đồng, tổng số tiền là 474.744.000 đồng.

Các đương sự thực hiện việc giao nhận tiền tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp Công ty cổ phần Ngôi Sao T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ việc trả tiền theo quyết định thì Công ty TNHH Minh Anh G có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc Công ty cổ phần Ngôi Sao T trả tiền theo quyết định trên. Kể từ khi Công ty TNHH Minh Anh G có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty cổ phần Ngôi Sao T chậm trả tiền theo quyết định thì Công ty cổ phần Ngôi Sao T còn phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí sơ thẩm:

2.1 Bị đơn Công ty cổ phần Ngôi Sao T phải chịu án phí sơ thẩm là 22.989.760 đồng.

2.2 Nguyên đơn Công ty TNHH Minh Anh G được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 14.501.048 đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0079453 ngày 11/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về án phí phúc thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại:

Công ty cổ phần Ngôi Sao T phải chịu số tiền là 2.000.000 đồng, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0040753 ngày 16/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng gia công số 496/2022/KDTM-PT

Số hiệu:496/2022/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về