Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 80/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 80/2023/DS-PT NGÀY 05/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

Trong ngày 05/5/2023, Toà án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2023/TLPT-DS ngày 27/02/2023 về“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc và kiện dòi tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 16/01/2023 của Toà án nhân dân huyện Nbị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 50/2023/QĐ-PT ngày 23/3/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2023/QĐ-PT ngày 07/4/2023 giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Anh Vũ Văn Đ, sinh năm 1984 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã Tân Mộc, huyện L, tỉnh B.

*Bị đơn: Ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1959 (Có mặt) Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1963 (Vắng mặt) Đều trú tại: Thôn T, xã Tân Mộc, huyện L, tỉnh B.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thăng, sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn Sậy To, xã Trù Hựu, huyện L, tỉnh B. (Có mặt)

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Trịnh Thị Lan, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Thôn T, xã Tân Mộc, huyện L, tỉnh B (Có mặt)

*Người làm chứng: Thân Văn Xây, sinh năm 1982; Địa chỉ: Tổ dân phố Trần Phú, thị trấn Chũ, huyện L, tỉnh B (Có mặt)

Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Bản án sơ thẩm, nguyên đơn anh Vũ Văn Đ trình bày:

Anh và ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1959, địa chỉ: Thôn T, xã Tân Mộc, huyện N là hàng xóm. Ông Nguyễn Văn O có 01 thửa đất tại Thôn T, xã Tân Mộc muốn chuyển nhượng, anh Đ cũng có nhu cầu muốn mua nên hai bên thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất này. Ngày 15/9/2021, anh và vợ chồng ông O, bà M ký kết hợp đồng đặt cọc có sự chứng kiến của ông Thân Văn Xây, sinh năm 1982, địa chỉ: Tổ dân phố Trần Phú, thị trấn Chũ, huyện L, tỉnh B. Nội dung đặt cọc như sau:

Điều 1. Tài sản đặt cọc: Bên A (tức ông O, bà M) đồng ý bán cho bên B (là anh Vũ Văn Đ) thửa đất vườn lâu năm, tờ bản đồ số BD-188448, địa chỉ thửa đất: Thôn T, xã Tân Mộc, huyện L, tỉnh B, đất mặt đường 289, mặt đường 5,8m + đất vườn, tổng diện tích là 250m2.

Điều 2: Thỏa thuận giá bán chuyển nhượng: Tổng số tiền 610.000.000 đồng (Sáu trăm mười triệu đồng chẵn, bên B (anh Vũ Văn Đ) đặt cọc trước số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng chẵn).

Điều 3. Thời hạn đặt cọc và thanh toán là 15 ngày kể từ ngày 15/9/2021 đến hết ngày 30/9/2021 bên bán nhận đủ tiền và cùng bên mua làm thủ tục công chứng chuyển nhượng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thủ tục công chứng hoàn tất, bên mua sẽ giao đủ tiền cho bên bán.

Ngoài ra còn thỏa thuận về chi phí thuế trước bạ và thuế phi nông nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, phí công chứng do anh Đ chịu. Bên ông O bà M chịu trách nhiệm và hỗ trợ anh Đ tách sổ và làm sổ mới, anh Đ chịu trách nhiệm đóng các khoản phí khi làm sổ. Hai bên cam kết chung như sau: Ông O bà M cam kết tài sản bán là tài sản của ông O bà M có đầy đủ các giấy tờ liên quan để chứng minh và cam kết tài sản không có thừa kế gia đình, không có tranh chấp với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào.

Sau khi hợp đồng được ký kết, quá thời hạn thỏa thuận nếu bên ông O bà M không bán, chuyển nhượng tài sản đặt cọc trên cho anh Đ thì ông O bà M phải bồi thường cho anh Đ gấp 02 lần số tiền mà anh Đ đã đặt cọc cho ông O bà M. Tổng số tiền bồi thường là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng chẵn). Ngược lại nếu bên B không tiến hành mua thì phải chịu mất số tiền đặt cọc trên. Nếu có tranh chấp thì cùng nhau bàn bạc dựa trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Nếu hai bên không thống nhất được thì đề nghị khiếu nại lên Tòa án và giải quyết theo Pháp luật Việt Nam theo quy định. Hợp đồng đặt cọc được lập thành 03 bản có giá trị pháp lý như nhau.

Sau khi ký hợp đồng, ngày 15/9/2021, anh đã giao đủ tiền đặt cọc cho ông Nguyễn Văn O, bà Nguyễn Thị M. Đến ngày 19/9/2021, anh tiếp tục giao tiền đợt 02 cho ông O số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) có chữ ký xác nhận của ông O, đến ngày 27/9/2021, anh đã giao hết số tiền còn lại là 310.000.000 đồng cho ông O, ông O có xác nhận bằng điểm chỉ và ký và dấu vân tay điểm chỉ của bà Nguyễn Thị M (Vợ ông O).

Sau khi giao đủ tiền chuyển quyền sử dụng đất cho ông O bà M, anh có mời ông Vũ Công Thiệp, cán bộ Địa chính xã Tân Mộc và 01 cán bộ Công ty đo đạc Thiên Phú tên là Nguyễn Văn Hội đến thửa đất mà anh đồng ý nhận chuyển nhượng từ ông O để tiến hành đo đạc, làm thủ tục tách sổ nhưng ông O không hợp tác với lý do ông O chỉ chuyển nhượng đất sau hành lang giao thông tỉnh lộ 289, còn phần đất thuộc hành lang giao thông vẫn thuộc quyền sử dụng nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn O nên thửa đất anh đã đặt cọc và chuyển hết số tiền nhận chuyển nhượng cho ông O không có đường vào.

Sau khi ông O không hợp tác, anh đã nhiều lần thuyết phục ông O nhưng ông O vẫn không thực hiện theo đúng hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng, không đồng ý cho anh sử dụng phần đất hành lang giao thông vì diện tích đất này vẫn nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn O, nên hai bên không làm thủ tục tách thửa trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được, do vậy anh và vợ chồng ông O không ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Nay anh nhận thấy ông O không hợp tác, đã vi phạm nghĩa vụ của bên nhận đặt cọc vì trong Hợp đồng đặt cọc đã ký kết giữa anh và vợ chồng ông O đã thỏa thuận rõ ông O, bà M đã đồng ý chuyển nhượng thửa đất vườn lâu năm, tờ bản đồ số BD - 188448, địa chỉ thửa đất: Thôn T, xã Tân Mộc, huyện L, tỉnh B, đất mặt đường 289, mặt đường 5,8m + đất vườn, tổng diện tích là 250m2. Nên anh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ngiải quyết buộc ông Nguyễn Văn O, bà Nguyễn Thị M chịu trách nhiệm trả anh tiền đặt cọc là 100.000.000 đồng; tiền phạt vi phạm (phạt cọc) 100.000.000 đồng và số tiền anh đã chuyển trả cho ông Nguyễn Văn O 510.000.000 đồng. Tổng số tiền ông O, bà M phải trả anh là 710.000.000 đồng (bẩy trăm mười triệu đồng chẵn) và lãi suất phát sinh theo quy định pháp luật tính từ ngày 30/9/2021 đến khi ông O, bà M thực hiện xong nghĩa vụ của mình.

*Bị đơn là ông Nguyễn Văn O, bà Nguyễn Thị M, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là chị Nguyễn Thị Thăng trình bày: Nội dung anh Đ trình bày ông, bà có thỏa thuận bán cho anh Vũ Văn Đ một thửa đất vườn lâu năm, mặt đường 289, mặt đường rộng 5,80m, tổng diện tích 250m2 cách tim đường 15,7m trở vào (theo bản đồ ký giáp danh phần diện tích chuyển nhượng). Tổng số tiền đã thỏa thuận giá bán chuyển nhượng là 610.000.000 đồng (Sáu trăm mười triệu đồng chẵn) là đúng. Ông O bà M đã đồng ý bán và anh Vũ Văn Đ đã đồng ý mua với tổng diện tích 250m2 như thỏa thuân, ông bà đã thực hiện đúng như thỏa thuận theo Hợp đồng đặt cọc đã ký kết là bàn giao đất cho anh Vũ Văn Đ, anh Đ đã nhận đất và đã tiến hành chặt phá cây vải thiều, múc đất và san lấp diện tích đất trên để đo đạc, gia đình ông không gây khó khăn, cản trở anh Vũ Văn Đ. Do vậy, vợ chồng ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Văn Đ và đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ncông nhận Hợp đồng đặt cọc và bản đo ký giáp danh phần diện tích đất chuyển nhượng và các giấy tờ liên quan là hợp pháp và đề nghị anh Vũ Văn Đ có trách nhiệm thực hiện theo đúng Hợp đồng đã ký kết, sớm thanh lý hợp đồng.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Trịnh Thị Lan (vợ anh Vũ Văn Đ) trình bày: Nhất trí với yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Văn Đ, không bổ sung thêm và không có yêu cầu độc lập, chị xác định số tiền đặt cọc và số tiền anh Đ đã chuyển cho ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M là tiền của hai vợ chồng chị.

Với những nội nội dung trên, bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 16/01/2023 của Toà án nhân dân huyện Nđã xử:

Căn cứ vào các Điều: Khoản 2 Điều 164 và khoản 1 Điều 166, khoản 3 Điều 254, Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự; Khoản 2, 3 Điều 26, 35, 39, 144, 147, 150, 271, 273 Bọ luật tố tụng dân sự, điểm đ, khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Buộc ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M phải trả anh Vũ Văn Đ, chị Trịnh Thị Lan số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng tiền đặt cọc và 100.000.000 đồng tiền phạt cọc.

- Buộc ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M phải trả anh Vũ Văn Đ, chị Trịnh Thị Lan 510.000.000 đồng.

Ngoài ra bản án còn buộc bị đơn phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo, quyền thi hành án cho các bên đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/01/2023, ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M kháng cáo bản án, đề nghị cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đòi 100 triệu tiền cọc, 100 triệu đồng phạt cọc và số tiền 510 triệu đồng, nguyên đơn xin rút yêu cầu đòi lãi.

Bị đơn giữ nguyên kháng cáo, đề nghị HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm. Đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị M đề nghị HĐXX phúc thẩm miễn án phí DSST cho bà Nguyễn Thị M.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Toà án nhân dân tỉnh B và các đương sự đã chấp hành đầy đủ các trình tự, thủ tục của BLTTDS.

-Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn O, bà Nguyễn Thị M, hủy bản án sơ thẩm đã xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn bà Nguyễn Thị M vắng mặt nhưng đã ủy quyền cho chị Nguyễn Thị Thăng. Căn cứ khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX xét xử vắng mặt đương sự nêu trên.

[2]. Xét nội dung kháng cáo của bị đơn ông O bà M thấy:

2.1. Trong quá trình giải quyết vụ, án tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự đều thừa nhận anh Đ và ông O, bà M ký hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng QSDĐ. Tại hợp đồng đặt cọc, các bên có thỏa thuận trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày 15/9/2021 đến ngày 30/9/2021, bên A (là ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M) nhận đủ tiền cọc sẽ cùng với bên B (là anh Vũ Văn Đ) làm thủ tục công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi thủ tục công chứng hoàn tất thì anh Đ phải giao đủ số tiền còn lại cho ông O bà M. Ngày 15/9/2021, sau khi ký hợp đồng đặt cọc, anh Đ đã chuyển đủ 100 triệu đồng tiền cọc. Ngày 19/9/2021, anh Đ đã trả cho ông O số tiền 200 triệu đồng; đến ngày 27/9/2021, anh Đ đã trả hết số tiền còn lại là 310 triệu đồng cho ông O. Ông O, bà M cũng thừa nhận đã nhận đủ số tiền đặt cọc và tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn lại. Sau khi chuyển đủ tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, anh Đ có mời ông Vũ Công Thiệp, cán bộ Địa chính xã Tân Mộc và 01 cán bộ Công ty đo đạc Thiên Phú tên là Nguyễn Văn Hội đến thửa đất mà anh nhận chuyển nhượng từ ông O để tiến hành đo đạc, làm thủ tục tách sổ nhưng với lý do ông O chỉ chuyển nhượng đất sau hành lang giao thông tỉnh lộ 289, còn phần đất thuộc hành lang giao thông vẫn thuộc quyền sử dụng nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn O, ông O bà M không đồng ý cho anh Đ sử dụng phần diện tích đất hành lang giao thông này, nên thửa đất anh Đ đã đặt cọc và chuyển hết số tiền nhận chuyển nhượng cho ông O không có đường vào. Ông O vẫn đồng ý bán diện tích đất đã thỏa thuận với anh Đ, còn phần đất hành lang giao thông vẫn thuộc quyền sử dụng của ông O vì phần đất hành lang giao thông này vẫn nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn O nên hai bên không làm thủ tục tách tửa đất theo quy định của pháp luật được vì thửa đất tách không có lối đi. Do vậy, anh Đ và vợ chồng ông O chưa ký kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

2.2. Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thừa nhận việc không tách được thửa đất để làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định pháp luật là do các bên không thỏa thuận quyền sử dụng diện tích đất hành lang giao thông phía trước, liền kề với thửa đất chuyển nhượng, dẫn tới việc các bên không thể thực hiện được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật vì đất chuyển nhượng không có lối đi, bị vây bọc bốn phía bởi bất động sản khác. Do vậy, có căn cứ xác định đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được do các bên nhầm lẫn. Bên chuyển nhượng ông O bà M xác định chỉ chuyển nhượng cho anh Đ phần đất sau hành lang giao thông, bên nhận chuyển nhượng anh Đ nhầm lẫn khi xác định ông O bà M chuyển nhượng hoặc đồng ý cho sử dụng cả phần đất hành lang giao thông, nên các bên không đạt được mục đích khi ký kết hợp đồng đặt cọc. Các bên không thể thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai quy định về điều kiện để một thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ quy định tại Điều 126 BLDS cần xác định hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên nhận cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông O bà M với bên đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất anh Đ là vô hiệu do bị nhầm lẫn.

2.3. Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự thấy lỗi để hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông O bà M và anh Đ vô hiệu là của cả hai bên. Tỉ lệ lỗi là ngang nhau, bên nhận cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông O bà M không thông tin rõ ràng về đối tượng hợp đồng (diện tích đất chuyển nhượng) với bên đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất anh Đ. Ngược lại phía anh Đ không tìm hiểu kỹ đối tượng của hợp đồng, không thỏa thuận rõ ràng về quyền sử dụng đất hành lang giao thông dẫn tới hợp đồng không thể thực hiện.

2.4. Do vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi dẫn tới các bên không ký kết hợp đồng chuyển nhượng theo quy định pháp luật hoàn toàn là do ông O bà M là không chính xác nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông O bà M. Cần sửa bản án sơ thẩm theo hướng xác định hai bên có lỗi ngang nhau. Nên ông O bà M không phải chịu tiền phạt cọc số tiền 100 triệu đồng như bản án sơ thẩm đã tuyên. Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu phía ông O bà M phải trả lại toàn bộ số tiền đã nhận của anh Đ.

2.5. Hợp đồng đặt cọc ký giữa ông O bà M và anh Đ vi phạm về nội dung đối tượng của hợp đồng đẫn đến việc các bên không thực hiện được hợp đồng chuyển nhượng đối với phần diện tích 250m2 đất mặt đường 289, mặt đường rộng 5,8m nên một trong hai bên có quyền hủy bỏ không tiếp tục thực hiện hợp đồng là có căn cứ theo Điều 423; Điều 424; Điều 425 Bộ luật dân sự.

2.6. Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/10/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Vũ Văn Đ đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Văn O bà Nguyễn Thị M trả tiền lãi suất phát sinh trên tổng số tiền 710.000.000 đồng tính từ ngày 30/9/2021 đến khi ông O bà M thực hiện xong nghĩa vụ. Theo quy định của pháp luật Tòa án phải thông báo cho anh Đ nộp tiền tạm ứng án phí và thụ lý đối với yêu cầu để giải quyết theo quy định. Tuy vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện theo đúng quy định. Lẽ ra cần phải hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm mới đảm bảo giải quyết đầy đủ, đúng yêu cầu của đương sự theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn trình bày nguyên đơn không có ý kiến thắc mắc gì cũng không kháng cáo bản án sơ thẩm về nội dung này nên để đảm bảo việc giải quyết vụ án nhanh chóng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm vì lý do này. Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm khắc rút kinh nghiệm đối với thiếu sót vi phạm này trong quá trình giải quyết vụ án.

2.6. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm vì bản án sơ xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” là không đúng mà đây là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSD đất” thấy không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm nhưng vẫn giải quyết được nội dung vụ án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bản án sơ thẩm buộc bà Nguyễn Thị M phải chịu 16.200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm chị Nguyễn Thị Thăng là đại diện theo ủy quyền của bà M đề nghị HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà M. Do bà M đã đủ 60 tuổi là người cao tuổi theo quy định tại Điều 12 Nghị Quyết 326/NQ-UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà M.

Do yêu cầu phạt cọc của anh Đ không được chấp nhận nên anh Vũ Văn Đ phải chịu án phí DSST đối với yêu cầu này.

[4]. Về án phí DSPT: Do kháng cáo của ông O, bà M được chấp nhận nên ông O bà M không phải chịu án phí DSPT.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 126, Điều 423, Điều 425, 427 Bộ luật dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 16/01/2023 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh B. Xử:

- Buộc ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M phải trả anh Vũ Văn Đ, chị Trịnh Thị Lan số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) và số tiền 510.000.000 đồng (Năm trăm mười triệu đồng) ông O bà M nhận của anh Đ để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh Đ. Tổng số tiền ông O bà M phải trả cho anh Đ là 610.000.000 đồng (Sáu trăm mười triệu đồng).

- Không chấp nhận yêu cầu của anh Vũ Văn Đ về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M phải trả anh Đ 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) tiền phạt cọc.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị M.

- Buộc anh Vũ Văn Đ phải chịu 5.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 16.200.000 đồng tạm ứng án phí anh Đ đã nộp theo biên lai số 0011130 ngày 10/10/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L. Anh Đ được nhận lại 11.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai trên.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 80/2023/DS-PT

Số hiệu:80/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về