Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 38/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 38/2021/DS-PT NGÀY 10/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC 

Ngày 10 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 19/2021/TLPT-DS ngày 23 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc;

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2021/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 28/2021/QĐ-PT ngày 23 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Hoàng Huy T, sinh năm 1968; địa chỉ: Số ..., L, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; hiện đang cư trú tại: Số ... đường T, khu V, thị trấn Đ, hu ện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Bị đơn: Ông lành Văn K, sinh năm 1969; địa chỉ: Số ..., thôn Đ, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phạm Thú H, sinh năm 1978; địa chỉ: Số …, đường B, phường H, th nh phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt;

2. Bà Ninh Thị H, sinh năm 1971; địa chỉ: Số ..., thôn Đ, xã H, th nh phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt;

3. Bà Bàn Thị H, sinh năm 1983; địa chỉ: Số …, L, H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người kháng cáo: Ông Hoàng Huy T là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án dân sự sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngu ên đơn ông Hoàng Huy T trình bày: Ngày 08/8/2020, ông được bà Phạm Thú H dẫn đi xem đất tại khu tái định cư 3, khu Đ I mở rộng, th nh phố L, lúc ấ ông lành Văn K ở trong ô tô, đỗ xe nga tại khu đất tái định cư 3, khu đô thị N I mở rộng, tại chỗ xem đất ông và bà Phạm Thú H đã thỏa thuận giá đất là1.180.000.000 đồng, ông đồng ý mua đất, sau đó mọi người cùng về nh bà Phạm Thú H để ký hợp đồng đặt cọc, lúc đó b Phạm Thú H và ông Lành Văn K cùng đi 1 xe ô tô với nhau, về đến nh b Phạm Thú H, ông lành Văn K đã đưa cho ông xem tờ giấ thông báo nộp lệ phí trước bạ có ghi số lô, số thửa đất là thửa đất số 456 ô số 10, tờ bản đồ số 105 tại khu đô thị N, xã Hoàng Đồng I, th nh phố L, tỉnh Lạng Sơn các bên đã ghi số lô, số thửa đất trên tờ giấ thông báo nộp thuế đất v o trong hợp đồng đặt cọc. Ông đã đặt cọc cho ông lành Văn K 50.000.000 đồng, 2 bên hẹn nhau đến ng 28-8-2020, sẽ cùng ký hợp đồng chu ển nhượng qu ền sử dụng đất.

Ngày 28-8-2020 ông lành Văn K gọi điện cho ông bảo làđược sổ đỏ rồi v bảo ông đến ký hợp đồng chu ển nhượng qu ền sử dụng đất. Ông bảo ông lành Văn K là hôm nay là thứ 6 rồi để thứ 2 sẽ đi ký hợp đồng. Ông lành Văn K đã đồng ý để đến thứ 2 sẽ làm th tục ký hợp đồng mua đất. Sáng ng 31-8- 2020, ông lành Văn K đã gọi ông bảo đi công chứng ký hợp đồng thì ông bảo ông lành Văn K làra thực địa để xác định chính xác vị trí thửa đất, lúc đó có mặt ông, bà Phạm Thú H, ông lành Văn K v 1 người cán bộ của dự án, ông không biết tên, đã xác định đất trong sổ đỏ của ông lành Văn K làở tái định cư 6 không phải tái định cư 3 như ông đã được đi xem ban đầu nên ông không mua nữa. Lúc đó ông lành Văn K không có ý kiến gì, còn b Phạm Thú H bảo ông là "Anh muốn mua ở tái định cư 3 thì để em đi ngoại giao". Ông đã chờ b Phạm Thú H đi ngoại giao, b Phạm Thú H có dẫn ông đi xem mấ chỗ đất khác nhưng ông không đồng ý. Đến hôm tòa án đi thẩm định thì ông mới biết làđất ông lành Văn K được cấp sổ đỏ thực chất làở tái định cư 7. Theo ông xả ra việc mua bán đất giữa ông v ông lành Văn K không thành là do ông Lành Văn K không tìm hiểu kỹ về thửa đất định bán cho ông, không biết đất của mình ở đâu chứ không phải làông lành Văn K định lừa ông.

Ngày 20-9-2020 ông đã đến nh ông lành Văn K để đòi lại tiền cọc thì ông lành Văn K bảo trừ của ông 10.000.000 đồng vì ông lành Văn K đã phải chi phí làm sổ đỏ nhanh rồi. Ông không nhất trí. Ông đã bảo ông lành Văn K là không phải làông không mua m làđất không đúng vị trí ban đầu đi xem, nếu lúc đó ông lành Văn K trả lại ông đ 50.000.000 đồng thì ông cũng đồng ý. Nếu bây giờ đất của ông lành Văn K trong sổ đỏ đúng vị trí đất ban đầu ông đi xem làtái định cư 3 thì ông vẫn mua với giá thỏa thuận. Ngày 25-9-2020, ông Hoàng Huy T làm đơn khởi kiện, kêu cầu ông lành Văn K trả lại ông tiền cọc là 50.000.000 đồng với 50.000.000 đồng tiền phạt cọc. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Hoàng Huy T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn ông lành Văn K trình bày: Ông được cấp 01 lô đất tái định cư tại khu đô thị Nam Ho ng Đồng I mở rộng, ông đã đi bốc thăm được ô số 10, tái định cư 7, ông chưa được giao đất trên thực điạ. Do không có nhu cầu sử dụng nên ông đã nhờ b Phạm Thú H, là người môi giới đất rao bán đất giúp ông. Trước khi ký hợp đồng với ông Hoàng Huy T, ông đã dẫn bà Phạm Thú H đi chỉ làđất của ông ở khu tái định cư 3 để bà Phạm Thúy H rao bán đất cho ông. Ông không được đưa ông Hoàng Huy T ra tái định cư 3 để chỉ đất trước khi ký hợp đồng đặt cọc. Ông  Hoàng Huy T đã ký hợp đồng đặt cọc ngày 08-8- 2020, ông đã được nhận của ông Tú 50.000.000 đồng tiền cọc. Tranh chấp xả ra thì ông không nhất trí trả tiền cọc cho ông Hoàng Huy T, cứ theo hợp đồng đặt cọc m làm, ai sai thì người ấ chịu. Ông Hoàng Huy T đã đặt cọc cho ông để mua đất nhưng việc mua bán đất không thành là do ông Hoàng Huy T không mua đất của ông, ông Hoàng Huy T không mua đất thì ông Hoàng Huy T mất tiền cọc.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy H trình bày: Ông lành Văn Khái bảo có 1 lô đất muốn bán, qua 1 người bạn nói thì bà biết là ông Hoàng Huy T muốn mua đất nên b đã giới thiệu cho ông Hoàng Huy T mua, trước đó ông lành Văn K đã dẫn b đi xem đất của ông lành Văn K là tại khu tái định cư 3 khu đô thị N I mở rộng. Lúc bà dẫn ông Hoàng Huy T đi xem đất thì có mặt bà và ông Hoàng Huy T, ông lành Văn K ngồi trên xe ô tô gần chỗ bà chỉ đất cho ông Hoàng Huy T. Tại thực địa thì bà và ông Hoàng Huy T đã thỏa thuận giá bán thửa đất là1.180.000.000 đồng về 2 bên đã về nhà bà để làm hợp đồng đặt cọc, lúc làm hợp đồng đặt cọc thì có mặt bà, ông lành Văn K, vợ ông lành Văn K, ngoài ra không còn ai khác. Ông Hoàng Huy T và ông Lành Văn K đã ký hợp đồng đặt cọc để giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 456 ô số 10, tái định cư 7, tờ bản đồ số 105, khu đô thị Nam ho ng Đồng I mở rộng, thành phố Lạng Sơn. Ông Hoàng Huy T đã đưa cho ông lành Văn K 50.000.000 đồng tiền cọc. Sau khi lấ được sổ đỏ về thì bà, ông Hoàng Huy T, ông lành Văn K xuống thực địa để xem vị trí thửa đất mà ông lành Văn K đã được cấp sổ đỏ thì thấy vị trí đất trong sổ đỏ là khác hoàn toàn so với vị trí đất ban đầu mà ông Hoàng Huy T được đi xem. Khi thấy vị trí đất trong sổ đỏ trên thực địa không đúng với vị trí đất ban đầu ông Hoàng Huy T được xem thì ông Hoàng Huy T đã không đồng ý mua đất của ông lành Văn K nữa. Theo bà hợp đồng mua đất không giao kết được là lỗi của ông lành Văn K.

Người có qu ền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ninh Thị H trình bày: Bà làvợ của ông lành Văn K. B có được biết sự việc đặt cọc tiền mua đất như nội dung ông lành Văn K đã trình b , b nhất trí với ý kiến của ông lành Văn K.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Thị H trình bày: Bà là vợ của ông Hoàng Huy T. Thời điểm ông Hoàng Huy T đi mua đất v đặt cọc tiền b không có mặt nên không nắm được sự việc. B nhất trí với ý kiến của ông Hoàng Huy T, không có ý kiến gì thêm.

Bản án sơ thẩm số 05/2021/DS-ST ng 28 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147; 157; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 126; 131; 429; 468 Bộ luật dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 4 điều 26, khoản 4 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ng 30/12/2016 của ban Thường vụ Quốc hội qu định về mức thu, mi n, giảm, thu, nộp, quản lý v sử dụng án phí v lệ phí Tòa án; quyết định:

Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của ngu ên đơn ông Hoàng Huy T cụ thể: Tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 08-08-2020 giữa ông Hoàng Huy T và ông lành Văn K về việc đặt cọc để giao kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 456 ô số 10, tái định cư 7, tờ bản đồ số 105 tại khu đô thị N I mở rộng, xã H, thành phố làlà vô hiệu. Buộc ông lành Văn K phải trả cho ông Hoàng Huy T số tiền đặt cọc 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng. Thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nghĩa vụ chậm trả: Kể từ ngày ông Hoàng Huy T có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông lành Văn K vi phạm nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo qu định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Không chấp nhận yêu cầu của ông Hoàng Huy T về việc yêu cầu ông lành Văn K trả số tiền phạt cọc là50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.

Về chi phí tố tụng: Ông Hoàng Huy T tự nguyện chịu chịu chi phí thẩm định là1.200.000 đồng. Ông Hoàng Huy T đã nộp đ chi phí thẩm định.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn buộc ông lành Văn K phải chịu 2.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, mi n án phí dân sự cho ông Hoàng Huy T và tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định pháp luật.

Trong thời hạn luật định, nguyên đơn ông Hoàng Huy T kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông lành Văn K phải trả ông 50.000.000 đồng tiền cọc với 50.000.000 đồng tiền phạt cọc theo hợp đồng hai bên đã ký.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyên đơn ông Hoàng Huy T yêu cầu ông Lành Văn K phải trả ông 50.000.000 đồng tiền đặt cọc và 50.000.000 đồng tiền phạt cọc tuy nhiên nếu tại phiên tòa ông lành Văn K đồng ý trả tiền luôn cho ông Hoàng Huy T thì ông chỉ yêu cầu ông lành Văn K phải trả ông 50.000.000 đồng tiền đặt cọc và 25.000.000 đồng tiền phạt cọc.

Bị đơn ông lành Văn K, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ninh Thị H không nhất trí với yêu cầu của ông Hoàng Huy T.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa phúc thẩm:

Về th tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp h nh đúng qu định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự cơ bản chấp hành đúng theo qu định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Về nội dung vụ án: Về đơn kháng cáo của ông Hoàng Huy T là kháng cáo hợp lệ. Do việc kháng cáo của ông Hoàng Huy T không có cơ sở đề chấp nhận nên đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự xử không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Huy T, giữ nguyên bản án dân sự số 05/2021/DS-ST ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn tuy nhiên do lời tuyên của Bản án sơ thẩm không phù hợp về quyền yêu cầu thi hành án đề nghị Hội đồng xét xử sửa lời tuyên của Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy H; bà Bàn Thị H nhưng đã có lời khai trong hồ sơ, không có êu cầu kháng cáo; tại phiên tòa ngu ên đơn, bị đơn v Kiểm sát viên đề nghị xét xử vắng mặt bà Phạm Thúy H; bà Bàn Thị H. Hội đồng xét xử áp dụng Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Xét kháng cáo của ông Hoàng Huy T thấy rằng: Đối với yêu cầu buộc ông lành Văn K phải trả ông Hoàng Huy T 50.000.000 đồng tiền cọc là có căn cứ, đã được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận; đối với yêu cầu buộc ông lành Văn K phải trả ông Hoàng Huy T 50.000.000 đồng tiền phạt cọc, nếu nếu tại phiên tòa ông lành Văn K đồng ý trả tiền luôn cho ông Hoàng Huy T thì ông chỉ yêu cầu ông lành Văn K phải trả 25.000.000 đồng tiền phạt cọc là không phù hợp, cụ thể:

[3] Ông Hoàng Huy T và ông lành Văn K ký kết hợp đồng đặt cọc với mục đích để giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 456 ô số 10, tờ bản đồ số 105 tại tái định cư 7, khu đô thị N I mở rộng, xã Ho ng Đồng, thành phố Lạng Sơn vào ngày 08-08-2020 thì cả 2 bên đương sự đều nhầm lẫn về đối tượng khi cho rằng thửa đất sô 456 ô số 10, tờ bản đồ số 105, tái định cư 7 tại khu đô thị N I mở rộng, xã H, thành phố làchính là thửa đất mà mà bà Phạm Thúy H đã được ông lành Văn K chỉ cho v sau đó b Phạm Thúy H đã dẫn ông Hoàng Huy T đi xem làthuộc ô số 21 khu tái định cư 3, khu đô thị N I mở rộng, thành phố L. Do vậy, có cơ sở xác định hợp đồng đặt cọc ngày 08-08-2020 giữa ông Hoàng Huy T và ông lành Văn K là vô hiệu do nhầm lẫn đối tượng (vị trí thửa đất) nên không làm phát sinh, tha đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của ngu ên đơn ông Hoàng Huy T, tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu và buộc ông lành Văn K phải trả cho ông Hoàng Huy T số tiền mà ông Hoàng Huy T đặt cọc 50.000.000 đồng làcó căn cứ.

[4] Theo các bên đương sự trình bày và thừa nhận thì trước khi ký hợp đồng đặt cọc ông lành Văn K chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đưa cho ông Hoàng Huy T xem, mà ông lành Văn K chỉ đưa cho ông Hoàng Huy T xem tờ thông báo nộp lệ phí trước bạ có ghi số lô số thửa đất mà ông lành Văn K được cấp đất tái định cư làô số 10, tái định cư 7 tại khu đô thị N I mở rộng, xã H, thành phố L. Ông Hoàng Huy T có lỗi là trước khi ký kết hợp đồng đặt cọc để mua đất đã không tìm hiểu kỹ thửa đất mình định mua của ai, cũng đề nghị các cơ quan chu ên môn để xác định chính xác vị trí thửa đất mà ông lành Văn K được cấp tái định cư làvị trí nào trên thực địa, tứ cận tiếp giáp thửa đất nào, không làm rõ xem thửa đất được ghi trong thông báo nộp lệ phí trước bạ mà ông lành Văn K đưa cho ông Hoàng Huy T xem hôm ký hợp đồng đặt cọc ngày 08-8-2020 có phải thửa đất mà ông đã được bà Phạm Thúy H dẫn đi xem không đã ký hợp đồng đặt cọc để mua đất của ông lành Văn K. Còn ông lành Văn K có lỗi là ông mới chỉ đi bốc thăm thửa đất tái định cư, ông chưa được giao đất tái định cư trên thực địa, bản thân ông cũng không biết chính xác vị trí thửa đất m ông được cấp tái định cư làở chỗ nào, tứ cận tiếp giáp với lô, thửa đã cho bà Phạm Thúy H để tìm người bán và nhận tiền đặt cọc để bán đất. Xét thấy cả hai bên đương sự đều có lỗi làm cho hợp đồng đặt cọc vô hiệu. Theo quy định tại điểm đ, khoản 1, mục 1 Nghị quyết số 01/2003/NQ- HĐTP ngày 16/4/2003 của Tòa án nhân dân tối cao thì "trong trường hợp 2 bên cùng có lỗi thì không phạt cọc", do đó ông Hoàng Huy T yêu cầu ông lành Văn K trả 50.000.000 đồng tiền phạt cọc là không phù hợp.

[5] Vì vậy, bản án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu buộc ông Lành Văn K phải trả ông Hoàng Huy T 50.000.000 đồng tiền phạt cọc là phù hợp với qu định của pháp luật; do đó không có căn cứ để sửa bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án sơ thẩm đã tu ên: Buộc ông Khái phải trả ông Tú 50.000.000đ, thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực làkhông đúng, mâu thuẫn với quyền yêu cầu thi hành án của người yêu cầu thi hành án nên Hội đồng xét xử sửa lời tuyên của Bản án sơ thẩm.

[6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy kháng cáo ông Hoàng Huy T làkhông có cơ sở chấp nhận. Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa làcó căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí phúc thẩm, kháng cáo không được chấp nhận nên theo quy định ông Hoàng Huy T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, ông Hoàng Huy T là người khuyết tật thuộc trường hợp được miễn án phí và đã có đơn xin mi n án phí. Do vậ căn cứ v o điểm đ khoản 1 Điều 12 v Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ng 30-12-2016 của ban Thường vụ Quốc hội qu định về mức thu, mi n, giảm, thu, nộp, quản lý về sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử mi n án phí dân sự phúc thẩm cho ông Hoàng Huy T.

[8] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 v Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của ban thường vụ Quốc hội về qu định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Huy T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2021/DS-ST ng 28 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Sửa phần lời tuyên, cụ thể:

Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của ngu ên đơn ông Hoàng Huy T cụ thể: Tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 08-08-2020 giữa ông Hoàng Huy T và ông lành Văn K về việc đặt cọc để giao kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 456 ô số 10, tái định cư 7, tờ bản đồ số 105 tại khu đô thị Nam Ho ng Đồng 1 mở rộng, xã Ho ng Đồng, thành phố Lạng Sơn là vô hiệu. Buộc ông lành Văn K phải trả cho ông Hoàng Huy T số tiền đặt cọc 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.

Nghĩa vụ chậm trả: Kể từ ngày ông Hoàng Huy T có đơn êu cầu thi hành án nếu ông lành Văn K vi phạm nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo qu định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị

3. Về án phí phúc thẩm: Ông Hoàng Huy T được mi n án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

405
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 38/2021/DS-PT

Số hiệu:38/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về