TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 47/2024/DS-PT NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC MUA SẮT PHẾ LIỆU, HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 31 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số 461/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua sắt phế liệu, hợp đồng vay tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 132/2023/TLST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 578/2023/QĐ-PT ngày 18 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Phạm Huy H, sinh năm 1977; (có mặt) Địa chỉ: Số H đường P, Phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
Đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1969; (có mặt) Địa chỉ: Số A đường N, Phường A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
2. Bị đơn: Ông Võ Thành L, sinh năm 1962; (vắng mặt) Địa chỉ: Số E Đường số A, KDC N, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.
Địa chỉ (theo đơn cung cấp địa chỉ ngày 01/8/2022): Số A Đường số E, KDC N, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.
3. Người kháng cáo: Bị đơn đơn ông Võ Thành L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông H (có ông T đại diện ủy quyền) trình bày: Ông H quen biết ông L vào năm 2018, tháng 6/2019 ông L chào bán lô sắt phế liệu thanh lý khoảng 17.000 tấn với giá 6.000 đồng/kg do trúng đấu giá lô hàng sắt phế liệu của Quân cảng C, Khánh Hòa. Ông H đã chuyển tiền cọc trước cho ông L 500.000.000 đồng, sau 10 ngày sẽ giao sắt phế liệu. Số lượng giao cụ thể sẽ được thanh toán cụ thể theo từng đợt, tiền đặt cọc được trừ vào đợt nhận hàng cuối cùng.
Ngày 04/7/2019 ông H ủy nhiệm chi đặt cọc số tiền trên vào tài khoản cá nhân ông L số 104001054X mở tại Ngân hàng TMCP C, Chi nhánh T1. Từ khi ông chuyển tiền cọc đến nay ông L không thực hiện giao sắt, đòi lại tiền cọc thì không trả.
Trước đó, lần lượt vào các ngày 30/5/2019 và 26/9/2019 ông cho ông L vay 30.000.000 đồng chuyển khoản qua tài khoản Ngân hàng S số 070101994439 hứa trả trong 01 tháng nhưng đến nay không trả.
Ông H yêu cầu ông L trả lại tiền đặt cọc mua sắt phế liệu và tiền vay tổng cộng 530.000.000 đồng, không yêu cầu trả lãi.
Bị đơn ông L trình bày: Không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H. Ông thừa nhận có ký hợp đồng như trên, số nhận 500.000.000 đồng ông H chuyển, không nhận đã vay 30.000.000 đồng, ông với ông H là đối tác ký mua bán, chuyển nhượng dự án. Hợp đồng này là giả cách do ông H nhờ ông ký, nhận tiền dùm rồi ông H sẽ rút ra đối phó với Công ty T2 và đưa cho người đã giới thiệu mua lô hàng sắt phế liệu thanh lý. Ông đã rút số tiền này đưa lại cho ông H để đưa cho người ta, còn tiền 30.000.000 đồng ông H nhiều lần chuyển cho ông sử dụng để nhờ ông đi Hà Nội và Quân cảng Cam Ranh làm việc, thu hồi lại 500.000.000 đồng đã đưa.
Tiến trình tố tụng: Bản án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà H là bị cáo trong vụ án. Bản án nhận định, tuyên án tổng số tiền 500.000.000 đồng ông H chuyển cho ông L có liên quan đến nhóm hành vi lừa đảo trên, ông H đã tự nguyện khắc phục xong, dành quyền cho ông H khởi kiện ông L trong vụ kiện dân sự khác để đòi lại số tiền trên.
Tại bản án sơ thẩm số 132/2023/TLST-DS, ngày 29 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng đã tuyên xử như sau:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phạm Huy H.
Buộc ông Võ Thành L trả lại cho ông Nguyễn Phạm Huy H 530.000.000 đồng, không phải trả lãi.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 17/9/2023, bị đơn ông Võ Thành L có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết xem xét số tiền theo đơn khởi kiện của nguyên đơn phía ông L có nhận nhưng đã thực hiện công việc cho nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Minh T trình bày: Nguyên đơn và bị đơn có thoả thuận giao dịch mua bán 17 tấn sắt phế liệu của Quân cảng C, theo đó phía nguyên đơn đã chuyển khoản đặt cọc cho bị đơn 500.000.000 đồng theo Giấy ủy nhiệm chi vào tài khoản cá nhân ông L số 104001054X mở tại Ngân hàng TMCP C, Chi nhánh T1. Việc nguyên đơn giao tiền qua chuyển khoản có biên nhận, bị đơn không chứng minh được đã sử dụng số tiền này như đã trình bày. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Bị đơn ông Võ Thành L vắng mặt, nhưng có đơn xin vắng mặt đề ngày 27/01/2024 trình bày vẫn giữa nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý theo thủ tục phúc thẩm và tại phiên tòa hôm nay, đương sự và Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Nhận thấy, trên cơ sở lời trình bày của các đương sự và qua diễn biến tại phiên tòa, kiểm sát viên cho rằng ý kiến của nguyên đơn về việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là có lợi cho bị đơn so với bản án dân sự sơ thẩm đã tuyên nên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Võ Thành L thực hiện thủ tục kháng cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[2] Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn, bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt. Do vậy, căn cứ theo quy định tại điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp.
[3] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Theo đơn khởi kiện ngày 04/01/2022 nguyên đơn ông Nguyễn Phạm Huy H yêu cầu giải quyết buộc bị đơn ông Võ Thành L trả lại số tiền đã nhận cọc là 500.000.000 đồng, lãi suất từ ngày 15/7/2019 tạm tính đến ngày khởi kiện là 125.555.500 đồng và trả 30.000.000 đồng ông L đã mượn ( không yêu cầu tính lãi). Trên cơ sở nội dung đơn khởi kiện, lời khai cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua sắt phế liệu và vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là có căn cứ.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn:
[4.1] Đối với hợp đồng đặt cọc mua sắt phế liệu: Trên cơ sở tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các đương sự thể hiện giữa ông Nguyễn Phạm Huy H và ông Võ Thành L có thoả thuận giao dịch về việc mua bán bán lô sắt phế liệu thanh lý của Quân cảng C, Khánh Hòa. Tuy giao dịch giữa các bên chỉ là thoả thuận miệng không lập thành văn bản, nhưng các bên đều thừa nhận, nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại hoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ tài liệu chứng cứ là ủy nhiệm chi ngày 04/01/2023, thể hiện ông H chuyển số tiền 500.000.000 đồng vào tài khoản cá nhân Võ Thành L số 104001054X mở tại Ngân hàng TMCP C, Chi nhánh T1, nội dung “chuyển khoản cọc thanh lý 17 ngàn tấn sắt”.
Tuy nhiên, số tiền đặt cọc trên có liên quan đến vụ án hình sự. Trong quá trình giải quyết xét xử tại Bản án hình sự số 22/2023/HS-ST ngày 12/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã nhận định đây là tiền do phạm tội mà có, nhưng ông Nguyễn Phạm Huy H đã khắc phục cho các bị hại trong vụ án nên dành quyền khởi kiện cho ông H một vụ kiện khác theo quy định của pháp luật.
Quá trình thụ lý giải quyết vụ án theo đơn khởi kiện của ông H, ông L thừa nhận có thoả thuận nhận cọc mua sắt phế liệu thanh lý và nhận số tiền 500.000.000 đồng do ông H chuyển khoản, nhưng Hợp đồng này là giả cách do ông H nhờ ông ký, nhận tiền dùm rồi ông H sẽ rút ra đối phó với Công ty T2 và đưa cho người đã giới thiệu mua lô hàng sắt phế liệu thanh lý. Tuy nhiên trên thực tế, ông L không cung cấp được chứng cứ chứng minh đã rút số tiền này ra đổ thực hiện các công việc như ông trình bày.
Phía ông H cũng không thừa nhận đã nhận lại số tiền này từ L. Do ông L đã nhận tiền theo hợp đồng bán sắt phế liệu nhưng không thực hiện được nên đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 351 Bộ luật dân sự, ông phải trả lại cho ông H 500.000.000 đồng.
[4.2] Đối với hợp đồng vay tài sản: Căn cứ vào Phiếu thu tiền mặt ngày 30/5/2019 và giấy nộp tiền ngày 06/9/2019 tại Ngân hàng c, thể hiện ông H chuyển khoản cho ông L hai lần số tiền 30.000.000 đồng, trong đó 01 lần chuyển 20.000.000 đồng có nội dung CHO MUON, lần chuyển 10.000.000 thì không ghi nội dung. Phía ông L cho rằng 30.000.000 đồng là khoản tiền ông H đưa đề làm chi phí cho ông L đi đòi lại số tiền 500.000.000 đồng. Qua xem xét Phiếu thu tiền mặt ngày 30/5/2019, thấy rằng vào ngày chuyển số tiền 500.000.000 đồng thì ông H cũng đồng thời chuyển cho ông L 20.000.000 đồng trên cùng phiếu thu. Do vậy, lời trình bày của ông L là không thuyết phục, bởi lẽ không thể cùng thời điểm ông H vừa chuyển tiền cọc 500.000.000 đồng, vừa đưa tiền chi phí để đòi lại chính số tiền cọc đã đưa cho ông L. Phía ông L không chứng minh được số tiền này nhận cho giao dịch nào khác với ông H. Do đó, cần buộc ông L trả lại cho ông H số tiền 30.000.000 này, nguyên đơn không yêu cầu tính lãi. Do vậy, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H buộc ông L phải trả cho ông H 530.000.000 đồng là có căn cứ.
Ngoài ra căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 11/01/2019 hướng dẫn: “Đối với trường hợp ....chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về lãi thì quyết định kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Do vậy, kể từ ngày ông H có đơn yêu cầu thi hành án mà ông L chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền phải thanh toán thì phải chịu trả lãi trên số tiền còn phải thi hành cho đến khi thi hành án xong số tiền phải trả.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tại phiên tòa đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[5] Về án phí dân sự:
[5.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí. Tuy nhiên, bị đơn ông Võ Thành L, sinh năm 1962, thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn. Do vậy, cần điều chỉnh lại phần án phí dân sự sơ thẩm.
[5.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn thuộc trường hợp được miễn nên không phải nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Võ Thành L.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Phạm Huy H.
Buộc ông Võ Thành L trả lại cho ông Nguyễn Phạm Huy H 530.000.000 đồng, không phải trả lãi.
2. Về án phí dân sự:
2.1 Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Võ Thành L thuộc trường hợp được miễn. Ông Nguyễn Phạm Huy H được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 750.000 đồng theo Biên lai số 0008453 ngày 06/6/2022 và 14.511.000 đồng theo Biên lai số 0008222 ngày 09/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.
2.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Võ Thành L được miễn nên không phải chịu.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua sắt phế liệu, hợp đồng vay tài sản số 47/2024/DS-PT
Số hiệu: | 47/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về