TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 234/2024/DS-PT NGÀY 08/05/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 19 tháng 02, ngày 14 tháng 3, ngày 04, ngày 26 tháng 4 và ngày 08 tháng 5 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 350/2023/TLPT-DS, về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản là tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 37/2023/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Tam Nông bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 455/2023/QĐ-PT ngày 07 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hà Đăng K, sinh năm 1982;
Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư T – Công ty Luật TNHH MTV T và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ.
Địa chỉ: 138/4, Lê Duẩn, phường Mỹ Phú, thành phố C, tỉnh Đ.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1957 (chết);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nh:
1. Bà Lê Thị H, sinh năm 1964;
Địa chỉ: Khóm Tân Đông A, thị trấn Th Bình, huyện Th Bình, tỉnh Đ.
Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Kim D, sinh năm 1963;
Địa chỉ: D4, cư xá tỉnh ủy, khu phố 1, phường Quyết Thắng, thành phố B, tỉnh Đ.
2. Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1984;
Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Kim D, sinh năm 1963.
Địa chỉ: D4, cư xá tỉnh ủy, khu phố 1, phường Quyết Thắng, thành phố B, tỉnh Đ.
3. Ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1989;
Cùng địa chỉ: Khóm Tân Đông A, thị trấn Th Bình, huyện Th Bình, tỉnh Đ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Tấn D, sinh năm 1994;
Địa chỉ: Ấp Bình Hòa Hạ, xã Thường Lạc, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đ.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1979;
Địa chỉ: Ấp Bình Chánh, xã Bình Thành, huyện Th Bình, tỉnh Đ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Tấn D: Luật sư Lê Văn L – Văn phòng Luật sư T, chi nhánh huyện Tháp Mười thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ.
Địa chỉ: Số 17B, đường Lê Lợi, khóm 3, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đ
2. Ông Lâm Vĩnh L, sinh năm 1978;
Địa chỉ: Ấp Long Định, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
3. Bà Lê Thị H, sinh năm 1964;
Địa chỉ: Khóm Tân Đông A, thị trấn Th Bình, huyện Th Bình, tỉnh Đ.
Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Kim D, sinh năm 1963;
Địa chỉ: D4, cư xá tỉnh ủy, khu phố 1, phường Quyết Thắng, thành phố B, tỉnh Đ.
Người kháng cáo, kháng nghị: Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn là bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th; ông Nguyễn Tấn D và Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 146/QĐ-VKS-DS ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Hà Đăng K trình bày:
Năm 2019, ông K với ông L cần mua đất ruộng nên có nhờ ông Nguyễn Thiện Th (5 Mý) tìm đất dùm. Sau đó ông 5 Mý có cho hay là ông Nguyễn Hữu S có phần đất khoảng 35 công cần bán. Lúc đó, ông với ông L thỏa thuận với ông S (chủ đất) mua bán phần đất có diện tích là 35.859m2 thuộc các thửa đất số: 176, 585, 178, 177, 179, 284, 661 và 662 cùng tờ bản đồ số 5, do ông Nguyễn Hữu S đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với giá là 100.000.000 đồng/1.000m2, bên ông S chịu tiền huê hồng và tiền thuế sang tên phần đất trên. Sau khi 2 bên thỏa thuận mua bán xong, ông có đưa cho ông S 50.000.000 đồng tiền đặt cọc, đến ngày 23/8/2019 ông có chuyển tiếp tiền sang nhượng đất cho ông S là 1.450.000.000 đồng, để hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng phần đất trên. Ngày 21/8/2019, ông với ông S có lập Hợp đồng chuyển nhượng đối với các thửa đất trên theo quy định (có Hợp đồng kèm theo). Khi đến Ủy ban nhân dân xã để lập hợp đồng chuyển nhượng thì Ủy ban nhân dân xã Phú Cường (nơi có đất chuyển nhượng) có đưa cho ông 1 văn bản để về nơi cư trú (TT. Tràm Chim) xác nhận ông là đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp mới cho sang tên. Do ông là giáo viên, không phải là đối tượng trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp nên không đứng tên chuyển nhượng được. Lúc đó, ông với ông L có bàn với nhau là kêu ông N cùng hùn mua phần đất trên và nhờ ông N đứng tên chuyển nhượng toàn bộ phần đất trên. Lúc đó ông N đồng ý mua 5.000m2 nên trả tiền cho ông S là 500.000.000 đồng, ông mua 17.000m2 trả cho ông S 1.700.000.000 đồng và ông L mua 13.859m2 trả cho ông S là 1.385.900.000 đồng, ông với ông L yêu cầu ông S làm thủ tục chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất trên cho ông N.
Sau khi nhận chuyển nhượng phần đất của ông S xong, ngày 12/7/2021 ông N thống nhất chuyển nhượng 5.000m2 của ông N cho ông với giá là 105.000.000 đồng/1.000m2, với số tiền là 525.000.000 đồng, ông đã đưa cho ông N được 325.000.000 đồng, số tiền còn lại 200.000.000 đồng, hẹn khi nào ông N làm thủ tục sang tên ông sẽ trả số tiền còn lại cho ông N. Đối với phần đất 17.000m2 mà ông thỏa thuận mua của ông S nhờ ông N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dùm, ông với ông L thống nhất chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tấn D với giá là 110.000.000 đồng/1.000m2. Sau khi thống nhất chuyển nhượng xong, giữa ông, ông L và ông N có thỏa thuận phân chia số tiền bán phần đất trên cụ thể như sau: Tổng cộng: 35.859m2 x 110.000.000 đồng/1.000m2 = 3.944.490.000 đồng. Phần ông 17.000m2 được hưởng 1.870.000.000 đồng, phần ông N 5.000m2 được hưởng 550.000.000 đồng và phần ông L 13.859m2 được hưởng 1.524.000.000 đồng, nhưng sau khi ông N nhận tiền chuyển nhượng đất của ông D không giao lại cho ông theo thỏa thuận.
Trước đây ông có khởi kiện yêu cầu ông N chuyển nhượng các thửa đất số 284, 661 và 662 cho ông, ông sẽ trả số tiền sang nhượng đất còn lại cho ông N và yêu cầu ông N chuyển nhượng trả lại các thửa đất số 176, 178 và 585 cho ông theo quy định. Nay ông thay đổi 01 phần yêu cầu khởi kiện như sau:
Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với ông N: Do phần đất này ông N đã chuyển nhượng cho ông D, nên ông đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên. Yêu cầu bà H, ông Th và ông H là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông N trả lại ông số tiền cọc đã nhận là 325.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu ông N chuyển nhượng lại các thửa đất số 176, 178 và 585, do phần đất này ông N đã chuyển nhượng cho ông D nên ông yêu cầu bà H, ông Th và ông H là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông N trả lại giá trị phần diện tích 17.000m2 cho ông với số tiền là 1.870.000.000 đồng (bằng với giá chuyển nhượng cho ông D) và yêu cầu tính lãi số tiền trên, theo mức lãi suất là 10%/năm kể từ ngày ông nộp đơn khởi kiện đến khi giải quyết xong vụ án.
Yêu cầu Tòa án tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022 để đảm bảo thi hành án theo quy định.
- Bị đơn ông Nguyễn Ngọc Nh và người đại diện hợp pháp bà Nguyễn Kim D trình bày:
Đối với yêu cầu ông K yêu cầu ông N trả số tiền cọc đã nhận là 325.000.000 đồng bà đại diện cho bên ông N không đồng ý, do ông K từ chối thực hiện hợp đồng nên phải mất tiền đặt cọc theo Điều 328 của Bộ luật dân sự. Đối với việc ông K yêu cầu ông N chuyển nhượng lại các thửa đất số 176, 178 và 585. Nay ông K thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu ông N trả lại số tiền 1.870.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi số tiền trên, theo mức lãi suất là 10%/năm, ông N không đồng ý, vì phần diện tích đất thuộc các thửa trên là do vợ chồng ông N vay tiền và bán phần đất ở huyện Th Bình để nhận chuyển nhượng phần đất trên của ông S nên các thửa đất trên là tài sản của vợ chồng ông N không liên quan gì đến ông K. Giữa ông N và ông L có thỏa thuận hùn vốn với nhau đối với diện tích đất trên là giao dịch giữa ông N và ông L giữa hai bên sẽ giải quyết với nhau nếu có phát sinh tranh chấp, không liên quan với ông K. Còn giữa ông L và ông K có thỏa thuận giao dịch riêng với nhau hay không thì ông N không biết. Tự ông L và ông K giải quyết với nhau, không liên quan đến ông N, ông N không chịu trách nhiệm đối với giao dịch của ông K và ông L. Các thửa đất trên ông N đã thống nhất chuyển nhượng cho ông D và đã nhận đủ tiền chuyển nhượng từ ông D. Nay những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông N đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 177, 178, 179 và 585, cùng tờ bản đồ số 5 cho ông D theo quy định.
Nếu ông K yêu cầu tiếp tục duy trì áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022, nếu phát sinh thiệt hại thì ông K có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông D.
- Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tấn D là ông Nguyễn Văn Truyền trình bày:
Trước đây khoảng tháng 10/2021, ông L có kêu ông D bán phần đất ở xã Phú Cường, vì ông L cho rằng ông L với ông N có hùn mua được phần đất trên. Sau khi ông D gặp ông L và ông N để thỏa thuận việc chuyển nhượng phần đất trên thì hai bên thỏa thuận là ông L và ông N bán toàn bộ phần đất thuộc các thửa số 176, 585, 178, 177, 179, 284, 661 và 662, cùng tờ bản đồ số 5 với tổng diện tích là 35.859m2 với giá là 110.000.000 đồng/1.000m2, với tổng số tiền là 3.944.490.000 đồng (35.859m2 x 110.000.000 đồng/1.000m2). Sau khi hai bên thỏa thuận chuyển nhượng xong, do phần đất trên ông N có thế chấp 1 phần để vay tiền tại Ngân hàng Sacombank, chi nhánh huyện Tam Nông nên ngày 18/10/2021, ông D có đưa tiền cọc cho ông L số tiền 200.000.000 đồng (có biên nhận), ngày 19/10/2021 ông D tiếp tục đưa thêm cho ông L 900.000.000 đồng tại Ngân hàng Sacombank (có biên nhận kèm theo) để ông L đưa cho ông N trả tiền vay Ngân hàng để rút thẻ đỏ về sang tên cho ông D, sau đó ông D có đưa thêm cho ông N 150.000.000 đồng. Đến ngày 14/02/2022, giữa ông D với ông N ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ phần đất trên. Sau khi hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng xong, ông D trả đủ số tiền còn lại cho ông N dứt điểm. Khi hợp đồng chuyển nhượng đất đang được thực hiện thì ông K tranh chấp đối với các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 178 và 585 nên chưa làm thủ tục sang tên được.
Do ông N hiện nay đã chết nên ông yêu cầu những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông N chuyển nhượng các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 178 và 585, 177 và 179, cùng tờ bản đồ số 5 cho ông D theo quy định.
Yêu cầu Tòa án hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lâm Vĩnh L trình bày:
Thừa nhận vào năm 2019, ông với ông K có hùn mua các thửa đất trên của ông S như lời ông K trình bày. Sau khi ông K không đứng tên chuyển nhượng được. Lúc đó ông với ông K có bàn với nhau là kêu ông N cùng hùn mua phần đất trên và nhờ ông N đứng tên chuyển nhượng toàn bộ phần đất trên. Lúc đó ông N đồng ý mua 5.000m2 và trả tiền cho ông S là 500.000.000 đồng, ông K mua 17.000m2 và trả cho ông S 1.700.000.000 đồng và ông mua 13.859m2 và trả cho ông S số tiền 1.385.900.000 đồng, ông với ông K yêu cầu ông S làm thủ tục chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất trên cho ông N. Sau khi chuyển nhượng phần đất của ông S xong, ngày 12/7/2021 ông N thống nhất chuyển nhượng 5.000m2 của ông cho ông K với giá là 105.000.000 đồng/1.000m2, với số tiền là 525.000.000 đồng, ông K đã đưa cho ông N được 325.000.000 đồng. Phần diện tích còn lại của ông với ông K thống nhất chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tấn D với giá là 110.000.000 đồng/1.000m2. Sau khi thỏa thuận chuyển nhượng xong, giữa ông, ông K và ông N có thỏa thuận phân chia số tiền bán phần đất trên cụ thể như sau: Tổng cộng 35.859m2 x 110.000.000 đồng = 3.944.490.000 đồng. Phần ông K 17.000m2 được hưởng 1.870.000.000 đồng, phần ông N 5.000m2 được hưởng 550.000.000 đồng và phần ông L 13.859m2 được hưởng 1.524.000.000 đồng. Do ông N là người đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông N ký hợp đồng chuyển nhượng thay cho ông với ông K và nhận tiền chuyển nhượng đất của ông D. Sau khi ông N nhận tiền chuyển nhượng, ông N đã giao đủ số tiền cho ông theo diện tích phân chia, còn số tiền của ông K thì ông N không giao, vì ông N cho rằng ông K không có hùn mua phần đất trên. Việc ông N trình bày như vậy là không đúng, ông khẳng định là trong phần diện tích 35.859m2 thuộc các thửa đất số 176, 585, 178, 177, 179, 284, 661, và 662 mà ông N chuyển nhượng cho ông D trong đó phần ông hùn mua 13.859m2, phần ông K 17.000m2 và phần ông N chỉ có 5.000m2.
Nay ông đề nghị Tòa án xem giải quyết buộc ông N trả lại số tiền trên cho ông K, ông không có ý kiến hay yêu cầu gì trong vụ án này.
- Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Nguyễn Ngọc Nh là ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th không có ý kiến hay yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2023/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông quyết định:
Căn cứ vào Điều 116, 117, 122, 123, 130, 131, 166, 328, 500, 501 và 503 Bộ luật dân sự; Điều 166 Luật Đất đai năm 2013; khoản 3 và khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Đăng K đối với những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th về việc hủy hợp đồng đặt cọc ngày 12/7/2021 giữa ông Hà Đăng K với ông Nguyễn Ngọc Nh.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th có trách nhiệm trả lại cho ông Hà Đăng K số tiền đặt cọc chuyển nhượng đất đã nhận là 325.000.000 đồng.
2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Đăng K đối với những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc N trả lại số tiền chuyển nhượng đất đã nhận.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th có trách nhiệm trả lại cho ông Hà Đăng K giá trị diện tích 17.000m2 với số tiền là 1.870.000.000 đồng và tiền lãi là 249.333.000 đồng. Tổng cộng gốc và lãi là 2.119.333.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong số tiền trên, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn lại phải thi hành, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
3/ Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, để đảm bảo thi hành án cho ông Hà Đăng K.
4/ Khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông Hà Đăng K được nhận lại toàn bộ số tiền bảo đảm đã nộp là 200.000.000 đồng, tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam, chi nhánh huyện Tam Nông, theo Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 01/2022/QĐ-BPBĐ ngày 02/3/2022 và Quyết định số 03/2022/QĐ-BPBĐ ngày 11/8/2022 của Tòa án.
5/ Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Nguyễn Tấn D đối với những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th có trách nhiệm sang tên phần đất đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tấn D thuộc thửa đất số 177, tờ bản đồ số 5, diện tích 10.959m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS07369, cấp ngày 14/11/2019 và thửa số 179, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.619m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS07371 cấp ngày 14/11/2019 do ông Nguyễn Ngọc N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể như sau:
Thửa số 177:
Hướng Đông giáp thửa 315 có chiều dài là 275,8 (từ mốc số 15 đo đến mốc số 16);
Hướng Nam giáp thửa 315 có chiều dài là 40,80 mét (từ mốc số 16 đo đến mốc số 9);
Hướng Tây giáp các thửa số 360, 332, 308 và 244 có chiều dài là 274 mét (từ mốc số 9 đo đến mốc số 10);
Hướng Bắc giáp thửa 193 có chiều dài là 38,98 mét (từ mốc số 10 đến mốc số 15).
Thửa 179:
Hướng Đông giáp thửa 1402 có chiều dài là 67,96 mét (từ mốc số 13 đo đến mốc số 14);
Hướng Nam giáp thửa 315 có chiều dài là 36,89 mét (từ mốc số 14 đo đến mốc số 15);
Hướng Tây giáp các thửa số 173 có chiều dài là 71,52 mét (từ mốc số 12 đo đến mốc số 15);
Hướng Bắc giáp kênh thủy lợi có chiều dài là 38,26 mét (từ mốc số 12 đến mốc số 13).
Theo sơ đồ đo đạc ngày 18/8/2022 và sơ đồ chỉnh lý ngày 21/6/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tam Nông và biên bản xem xét thẩm định tại chổ của Tòa án).
6/ Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tấn D với ông Nguyễn Ngọc N đối với các thửa đất số 176, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.393m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 07386, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019; thửa đất số 585, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.500m2; mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 07365, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019; thửa đất số 178, tờ bản đồ số 5, diện tích 13.438m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 07370, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019; thửa đất số 284, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.950m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 07372, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019; thửa đất số 661, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.000m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 07366, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019 và thửa đất số 662, tờ bản đồ số 5 diện tích 1.000m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 07367, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019. Các thửa đất nêu trên đều do ông Nguyễn Ngọc N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Buộc ông Nguyễn Tấn D có trách nhiệm giao trả lại cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th các thửa đất số 176, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.393m2; thửa đất số 585, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.500m2; thửa đất số 178, tờ bản đồ số 5, diện tích 13.438m2 (đo đạc thực tế 12.894m2); thửa đất số 284, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.950m2 (đo đạc thực tế 3.463m2); thửa đất số 661, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.000m2 và thửa đất số 662, tờ bản đồ số 5 diện tích 1.000m2 (đo đạc thực tế 929,8m2), cụ thể như sau:
Thửa đất số 176, diện tích 2.393m2:
Hướng đông giáp thửa 179 có chiều dài là 58,22 mét (Từ mốc A đo đến mốc B);
Hướng nam giáp thửa 177 có chiều dài là 38,98 mét (Từ mốc B đo đến mốc C);
10);
Hướng tây giáp thửa 244 có chiều dài là 71,06 mét (Từ mốc C đo đến mốc Hướng bắc giáp kênh thủy lợi có chiều dài 20,75 mét (Từ mốc 10 đo đến mốc 11);
Hướng bắc giáp kênh thủy lợi có chiều dài 11,57 mét (Từ mốc 11 đo đến mốc 12);
Hướng bắc giáp kênh thủy lợi có chiều dài 7,95 mét (Từ mốc 12 đo đến mốc A).
Thửa số 585 diện tích 1.500m2:
Hướng đông giáp thửa 178 có chiều dài là 36,70 mét (Từ mốc 16 đo đến mốc I);
Hướng nam giáp thửa 661 có chiều dài là 40,99 mét (Từ mốc I đo đến mốc D);
9);
16);
Hướng tây giáp thửa 360 có chiều dài là 36,68 mét (Từ mốc D đo đến mốc Hướng bắc giáp thửa 177 có chiều dài 40,80 mét (Từ mốc 9 đo đến mốc Thửa số 178 diện tích 13.438m2 (đo đạc thực tế 12.894m2):
Hướng đông giáp thửa 1402 có chiều dài là 352,66 mét (Từ mốc 14 đo đến mốc J);
Hướng nam giáp thửa 799 có chiều dài là 37,78 mét (Từ mốc J đo đến mốc G);
Hướng tây giáp thửa 661, 662, 585 v2 177 có chiều dài là 346,2 mét (Từ mốc G đo đến mốc 15);
Hướng bắc giáp thửa 179 có chiều dài 36,89 mét (Từ mốc 15 đo đến mốc 14);
Thửa số 284 diện tích 2.950m2 (đo đạc thực tế 3.463m2):
Hướng đông giáp thửa 446 có chiều dài là 49,43 mét (Từ mốc 5 đo đến mốc 4);
Hướng nam giáp bờ bắc kênh Đồng Tiến có chiều dài là 71,11 mét (Từ mốc 5 đo đến mốc 6);
Hướng tây giáp thửa 283 có chiều dài là 19,67 mét (Từ mốc 6 đo đến mốc 19);
20);
3);
Hướng tây giáp thửa 283 có chiều dài là 37,76 mét (Từ mốc 19 đo đến mốc Hướng bắc giáp thửa 283 có chiều dài 23,63 mét (Từ mốc 20 đo đến mốc Hướng bắc giáp kênh thủy lợi có chiều dài 35,18 mét (Từ mốc 3 đo đến mốc 4);
Thửa số 662 diện tích 1.000m2 (đo đạc thực tế 929,8m2):
Hướng đông giáp thửa 178 có chiều dài là 22,68 mét (Từ mốc G đo đến mốc H);
Hướng nam giáp thửa 799 có chiều dài là 41,32 mét (Từ mốc G đo đến mốc F);
Hướng tây giáp thửa 395 có chiều dài là 24,15 mét (Từ mốc F đo đến mốc E); H);
Hướng bắc giáp thửa 661 có chiều dài 41,16 mét (Từ mốc E đo đến mốc Thửa số 661 diện tích 1.000m2:
Hướng đông giáp thửa 178 có chiều dài là 24,32 mét (Từ mốc H đo đến mốc I);
Hướng nam giáp thửa 662 có chiều dài là 41,16 mét (Từ mốc H đo đến mốc E);
Hướng tây giáp thửa 395 có chiều dài là 24,38 mét (Từ mốc E đo đến mốc D);
Hướng bắc giáp thửa 585 có chiều dài 40,99 mét (Từ mốc D đo đến mốc I);
Theo sơ đồ đo đạc ngày 18/8/2022 và sơ đồ chỉnh lý ngày 21/6/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tam Nông và biên bản xem xét thẩm định tại chổ của Tòa án).
7/ Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Tấn D chịu toàn bộ tiền chi phí xem xét thẩm định tại chổ là 19.836.000 đồng (đã nộp xong).
8/ Về án phí:
Bà Lê Thị H và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Hà Đăng K được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 31.800.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003553 ngày 23/02/2023 và biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 00003690 ngày 16/5/2023, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông.
Ông Nguyễn Tấn D phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông D đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0013104 ngày 16/6/2022, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự. Sau khi xét xử vụ án, bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận việc trả tiền đặt cọc cho ông Hà Đăng K với số tiền 325.000.000 đồng, không chấp nhận việc trả cho ông Hà Đăng K số tiền chuyển nhượng đất với gốc và lãi là 2.119.333.000 đồng, hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn để ông Nguyễn Tấn D được thực hiện hoàn tất việc sang tên trong các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Ông Nguyễn Tấn D kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận toàn bộ hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tấn D và ông Nguyễn Ngọc N ký ngày 14/02/2022, hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ- BPKCTT ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Tấn D yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 08 thửa đất số 177, 179, 176, 178, 585, 284, 661, 662 giữa ông Nguyễn Ngọc N và ông Nguyễn Tấn D và sửa chi phí tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm có mặt ông K, Luật sư Mai Tuyên, bà D, ông L, ông Tr, Luật sư Lợi có mặt. Các đương sự khẳng định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Tòa án giải quyết vụ án. Bà D, ông Tr giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và các đương sự không yêu cầu thu thập thêm chứng cứ.
Bà Nguyễn Kim D (đại diện hợp pháp của bà H, ông H) trình bày: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét áp dụng Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận kháng cáo của ông N, sửa bản án sơ thẩm của Tòa án huyện Tam Nông, Ông K không chứng minh được cho yêu cầu khởi kiện của mình, bà yêu cầu Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông K là không chấp nhận việc ông K yêu cầu ông N trả số tiền cọc đã nhận là 325.000.000 đồng, do ông K đã thống nhất hủy hợp đồng với ông N và ông K cũng đã đồng ý mất tiền đặt cọc nên trả lại biên nhận tiền cho ông N. Do đó, ông K phải mất tiền đặt cọc theo Điều 328 của Bộ luật dân sự.
Không đồng ý đối với việc ông K yêu cầu ông N trả lại số tiền 1.870.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi số tiền trên. Vì ông K không có trong phần mua đất mà là thỏa thuận giữa ông N, ông L. Phần đất ông N chuyển nhượng cho ông D là đất của ông N không liên quan gì đến ông K.
Thống nhất hủy bỏ 02 Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ông Nguyễn Tấn D được thực hiện hoàn tất việc sang tên trong các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Ngọc N và ông Nguyễn Tấn D.
Luật sư Lê Văn Lợi Lợi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Tấn D phát biểu lời tranh luận và đề nghị giải quyết như sau:
Tại phiên tòa thì ông K và ông L đã thống nhất hợp đồng chuyển nhượng giữa ông N và ông D là hoàn toàn hợp pháp nên yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D và ông N, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là trái yêu cầu của đương sự nên yêu cầu hủy việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nên yêu cầu chấp nhận:
Yêu cầu những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th chuyển nhượng các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 178 và 585, 177 và 179, cùng tờ bản đồ số 5 cho ông D theo quy định.
Yêu cầu Tòa án hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022 để bên ông N thực hiện việc chuyển nhượng các thửa đất cho ông D.
- Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Tấn D là ông Nguyễn Văn Truyền trình bày: Thống nhất theo ý kiến trình bày của Luật sư Lợi, không bổ sung gì thêm.
Luật sư Mai Tuyên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông K phát biểu lời tranh luận:
Việc nhận định Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ và đúng quy định, việc ông D thỏa thuận đưa đất vào dự án là chưa có thực hiện nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th và của ông Nguyễn Tấn D, không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Nguyên đơn ông Hà Đăng K trình bày: Thống nhất theo ý kiến tranh luận của luật sư, không bổ sung gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lâm Vĩnh L trình bày: Ông N chỉ có số tiền hùn mua đất 5.000m2. Ngoài ra không có tiền nào khác. Số tiền hùn vốn mua, chuyển nhượng đất của ông L thì ông N đã đưa cho ông đủ. Ông D không biết phần hùn vốn của ông K. Số tiền tranh chấp là của ông K nhưng ông N nhận tiền ông D chưa giao lại cho ông K.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng có mặt thực hiện đúng theo quy định về quyền và nghĩa vụ đương sự. Về nội dung giải quyết vụ án đề nghị do Bản án sơ thẩm số 37/2023/DS-ST ngày 05/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông là chưa phù hợp theo quy định nên đề nghị chấp nhận kháng cáo, kháng nghị theo hướng hủy 02 Quyết định áp dụng biện phấp khẩn cấp tạm thời số số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, sửa một phần nội dung bản án sơ thẩm: công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông N và ông D; bác yêu cầu ông K yêu cầu hàng thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông N gồm bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th trả cho ông K tiền chuyển nhượng đất và lãi tổng cộng 2.119.333.000 đồng; Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông N gồm bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th phải trả lại số tiền đặt cọc đã nhận 325.000.000 đồng cho ông K trong phạm vi tài sản của ông N (nếu có) theo quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Các đương sự thống nhất không có khiếu nại gì về thành phần những người tham gia tố tụng, không có yêu cầu khiếu nại gì khác.
[2] Về nội dung vụ án tranh chấp các đương sự Tòa án cấp sơ thẩm thu thập đánh giá chứng cứ xét:
Về nội dung khởi kiện của nguyên đơn:
[2.1] Đối với Hợp đồng đặt cọc:
Xét yêu cầu của ông K về việc yêu cầu ông N trả lại số tiền đặt cọc đã nhận là 325.000.000 đồng. Ông K và bà D đều thừa nhận rằng vào ngày 12/7/2021, giữa ông K và ông N có thỏa thuận chuyển nhượng đất với nhau, cụ thể: ông N có thỏa thuận chuyển nhượng cho ông K diện tích 5.000m2 và có nhận của ông K số tiền 325.000.000 đồng, số tiền chuyển nhượng đất còn lại (200.000.000 đồng) hai bên thỏa thuận khi nào ông K trả đủ, thì ông N lập thủ tục sang tên cho ông K. Lời trình bày của hai bên phù hợp với Hợp đồng đặt cọc ngày 12/7/2021 giữa ông K với ông N. Như vậy, có căn cứ xác định giữa ông K với ông N có thỏa thuận chuyển nhượng đất với nhau và ông N có nhận của ông K số tiền đặt cọc là 325.000.000 đồng. Qua xem xét nội dung hợp đồng đặt cọc ngày 12/7/2021 giữa ông K với ông N có đoạn: “Khi nào ông K đưa đủ số tiền còn lại thì hai bên sẽ tới tổ chức công chứng để lập và công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Theo thỏa thuận trên, thì hai bên không có thỏa thuận thời gian cuối cùng để hai bên thực hiện hợp đồng chuyển nhượng trên, nên chưa có căn cứ xác định bên ông K vi phạm hợp đồng. Hơn nữa, tại biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2022 ông N trình bày: “thừa nhận có chuyển nhượng cho ông K diện tích 5.000m2 với giá là 525.000.000đ và ông đã nhận của ông K số tiền cọc là 325.000.000đ, hiện phần đất này ông đã chuyển nhượng cho ông D, nên ông yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông với ông K, số tiền chuyển nhượng đất giải quyết theo pháp luật”. Như vậy, từ khi giữa ông K và ông N ký kết hợp đồng đặt cọc trên cho đến nay, không có văn bản hay phụ lục hợp đồng nào thể hiện hai bên đã hủy hợp đồng đặt cọc trên và ông K chịu mất tiền cọc. Trong quá trình khởi kiện, ông K yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng giữa ông với ông N.
Tuy nhiên, ông K cũng thống nhất hủy hợp đồng đặt cọc trên theo ý kiến của ông N. Do đó, nghĩ nên hủy hợp đồng đặt cọc ngày 12/7/2021 giữa ông K với ông N là phù hợp và có căn cứ chấp nhận. Do trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông N có nhận của ông K số tiền 325.000.000 đồng đến nay chưa trả lại, nên buộc ông N trả lại cho ông K số tiền đặt cọc đã nhận là 325.000.000 đồng là phù hợp và có căn cứ chấp nhận.
Bà D trình bày: Trong quá trình ông N và ông K thực hiện việc chuyển nhượng đất thì ông K và ông N thống nhất hủy hợp đồng và đồng ý chịu mất số tiền đặt cọc trên, nên ông K đã trả lại biên nhận tiền cho ông N. Xét thấy lời trình bày của bà D là không có căn cứ chấp nhận. Bởi vì bà D không có chứng cứ gì để chứng minh giữa ông K với ông N có thỏa thuận về việc ông K đồng ý chịu mất số tiền đặt cọc trên và ông K cũng không thừa nhận có thỏa thuận chịu mất số tiền cọc trên nên không có căn cứ để chấp nhận lời trình bày của bà D.
[2.2] Đối với hợp đồng chuyển nhượng yêu cầu bên ông N trả lại số tiền 1.870.000.000 đồng, tương diện tích 17.000m2 đất.
Căn cứ xác định trong phần diện tích 35.859m2 mà ông N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phần diện tích của ông K hùn mua là 17.000m2, phần ông L là 13.859m2, phần ông N là 5.000m2, cụ thể:
- Tại biên bản lấy lời khai ông S ngày 17/5/2022 ông S trình bày:
Ngày 21/8/2019, ông có thỏa thuận chuyển nhượng cho ông K diện tích 35.859m2, với giá là 100.000đ/1.000m2 (có giấy tay sang nhượng ngày 21/8/2019 giữa ông với ông K). Sau khi ông K trả cho ông số tiền chuyển nhượng 1.500.000.000đ thì giữa ông với ông K đến UBND xã Phú Cường để làm thủ tục sang tên. Khi đến xã thì không làm thủ tục sang tên được, do ông K không đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, ông K và ông L yêu cầu ông sang tên cho ông Nh, chứ từ trước đến giờ ông không có giao dịch với ông Nh và cũng không biết ông Nh. Số tiền chuyển nhượng đất ông nhận của ông K 1.500.000.000đ (trong đó đưa tiền mặt 50.000.000đ, chuyển khoản 1.450.000.000đ), nhận của ông Nh 1.500.000.000đ (chuyển khoản của Ngân hàng BIDV 500.000.000đ và chuyển khoản của Ngân hàng Sacombank 1.000.000.000đ sau khi ông sang tên xong) và nhận tiền mặt của ông L khoảng 400.000.000 đồng.
- Tại biên bản lấy lời khai ông L ngày 15/7/2022 ông L trình bày: Lúc đầu thỏa thuận chuyển nhượng phần đất trên là do ông với ông K trực tiếp thỏa thuận, bàn bạc với chủ đất (ông S). Sau đó, do ông K không đứng tên được nên mới bàn bạc kêu ông Nh hùn mua 1 phần và nhờ ông Nh đứng tên phần đất trên dùm. Phần diện tích chuyển nhượng của ông S trong đó phần ông K 17.000m2, phần ông L là 13.859m2 và phần ông Nh là 5.000m2. Số tiền nhận chuyển nhượng đất đã trả cho ông S, cụ thể: Phần ông K đưa cọc 50.000.000đ, chuyển khoản cho ông S 1.450.000.000đ và ông K đưa cho ông 200.000.000đ để ông trả cho ông S.
Phần ông L 13.859m2, ông L trả tiền cho ông S bằng cách là sau khi ông S làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông N, thì ông N thế chấp diện tích 21.000m2 đã đứng tên vay dùm cho ông L 1.000.000.000 đồng, tại Ngân hàng Sacombank để chuyển khoản trả cho ông S (có tờ thỏa thuận giữa ông N với ông L), số tiền chuyển nhượng đất còn lại ông L trả tiền mặt cho ông S (tại biên bản lấy lời khai ông S thừa nhận). Phần ông N 5.000m2, ông N vay tiền tại Ngân hàng BIDV huyện Th Bình chuyển khoản trả cho ông S số tiền 500.000.000 đồng (có giấy chuyển khoản của ngân hàng và phù hợp với lời khai của ông S).
Lời trình bày của ông L phù hợp với tờ Hợp đồng chuyển nhượng ngày 21/8/2019 giữa ông K với ông S và Giấy chuyển khoản tiền của ông K cho ông S ngày 23/8/2019, phù hợp với lời khai của ông S và phù hợp với Tờ thỏa thuận phân chia tiền sau khi sang nhượng đất cho ông D, cụ thể:
Trong tờ phân chia do ông L, ông K và ông N cung cấp thể hiện: Từ dòng đầu tiên của tờ phân chia tiền cho đến dòng cuối cùng đều thể hiện: Tổng số diện tích đất đã chuyển nhượng là 35.859m2 x 110.000.000 đồng/1.000m2 = 3.944.490.000 đồng. Trong đó phần ông K 17.000m2 x 110.000.000 đồng = 1.870.000.000 đồng, phần ông L là 13.859m2 x 110.000.000 đồng = 1.524.490.000 đồng, ông L đã nhận trước là 1.100.000.000 đồng (ông L nhận lần đặt cọc đầu tiên là 200.000.000 đồng, nhận làn sau 900.000.000 đồng để trả nợ Ngân hàng), số tiền còn lại là 424.490.000 đồng, phần ông N 5.000m2 x 110.000.000 đồng = 550.000.000 đồng. Sau khi các bên tính toán xong, thống nhất cùng ký tên vào Tờ thỏa thuận trên.
Mặt khác, sau khi các bên thực hiện việc chuyển nhượng đất xong, ông N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông S (chủ đất) chỉ đưa cho ông N 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích khoảng 21.000m2 để ông N vay tiền tại Ngân hàng Sacombank trả tiền chuyển nhượng đất còn lại cho ông. Phần 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn lại có diện tích khoảng 14.500m2 thì do ông K quản lý, cho đến khi các bên thỏa thuận chuyển nhượng đất cho ông D thì ông N mới yêu cầu ông K giao lại để ông làm thủ tục chuyển nhượng cho ông D, khi ông N nhận lại 04 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông K, ông N có ghi lại biên nhận cho ông K giữ. Bà D thừa nhận chử viết trong tờ giấy trên (bút lục số 22) là của ông N.
Như vậy, có căn cứ xác định trong phần diện tích 35.859m2 ông N nhận chuyển nhượng từ ông S và đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có diện tích 17.000m2 là của ông K nên buộc bên ông N có trách nhiệm giao trả phần đất trên lại cho ông K là phù hợp và có căn cứ chấp nhận.
Tuy nhiên, ông K không phải là đối tượng trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp nên không được nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp. Trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa sơ thẩm ông K không yêu cầu nhận lại phần diện tích đất trên mà yêu cầu bên ông N trả lại giá trị phần đất trên cho ông, theo giá mà các bên thỏa thuận chuyển nhượng cho ông D là phù hợp. Do phần đất này các bên thỏa thuận chuyển nhượng cho ông D với giá là 110.000.000 đồng/1.000m2, với số tiền là 1.870.000.000 đồng, ông N đã nhận đủ tiền của ông D nhưng chưa trả lại cho ông K. Do đó, buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông N có trách nhiệm trả lại số tiền trên cho ông K là có căn cứ chấp nhận.
[3] Bà D thừa nhận trước đây ông N và ông L có thỏa thuận hùn mua phần đất trên như lời ông L trình bày, trong đó phần ông N 5.000m2, phần ông L 30.859m2 (theo Tờ thỏa thuận giữa ông L với ông N) và sau khi sang tên, ông N có làm thủ tục vay dùm cho ông L 1.000.000.000 đồng để trả tiền sang nhượng đất cho ông S, nhưng sau khi vay tiền ông L chỉ trả lãi cho Ngân hàng được 2-3 tháng thì không trả nữa nên ông N trả thay. Sau đó, giữa ông N và ông L thỏa thuận lại phần đất trên, cụ thể: phần ông L 15.859m2, phần còn lại là của ông N. Việc bà D cho rằng giữa ông N với ông L thỏa thuận lại việc chuyển nhượng đất giữa các bên được thể hiện tại biên nhận tiền ngày 14/02/2022 giữa ông N và ông L. Qua xem xét nội dung biên nhận ngày 14/02/2022 thể hiện: “Tôi: Lâm Vĩnh L SN 1978 có nhận số tiền 884.000.000đ của ông Nguyễn Ngọc Nh lý do tiền bán đất và tiền mượn đã thanh lý tiền đất xã Phú Cường xong”. Như vậy, theo nội dung trong biên nhận trên thì giữa ông N với ông L ngoài việc giao nhận tiền bán đất, hai bên còn thanh toán tiền mượn với nhau.
Bà D cũng thừa nhận số tiền ông L nhận theo biên nhận nêu trên có tiền bán đất và tiền mượn qua lại giữa ông N với ông L, nhưng bà D không chứng minh được trong đó số tiền bán đất ông N giao cho ông L là bao nhiêu và số tiền mượn qua lại giữa hai bên là bao nhiêu. Ngoài biên nhận tiền ngày 14/02/2022 ra, bà D không có gì để chứng minh việc ông N và ông L thỏa thuận lại trong việc sang nhượng phần đất trên.
Trong quá trình thu thập chứng cứ, ông L đều xác định trong phần diện tích 35.859m2 nhận chuyển nhượng của ông S thì ông N chỉ có 5.000m2 theo tờ thỏa thuận giao cho ông Nguyễn Ngọc N đứng tên quyền sử dụng đất tại xã Phú Cường mà ông L với ông N đã ký kết, ông L không thừa nhận giữa ông với ông N có thỏa thuận lại việc sang nhượng phần đất trên như lời bà D trình bày. Mặt khác, ông N cho rằng toàn bộ số tiền nhận chuyển nhượng đất của ông S là do ông trả nhưng ông chỉ chứng minh được là có chuyển khoản cho ông S số tiền 500.000.000 đồng từ ngân hàng BIDV và 1.000.000.000 đồng (chuyển khoản dùm cho ông L từ Ngân hàng Sacombank) số tiền còn lại ông không chứng minh được. Trong quá trình thu thập chứng cứ ông S (chủ đất) xác định chỉ nhận của ông N số tiền 1.500.000.000 đồng từ hai lần chuyển khoản trên, ngoài ra không có nhận thêm bất cứ khoản tiền nào khác.
[4] Bà D cũng thừa nhận tờ phân chia tiền sau khi bán đất cho ông D là do ông L ghi, nhưng bà D cho rằng lúc đầu ông L chỉ ghi tính tiền hùn làm ăn với ông K, không liên quan gì đến ông N, sau đó ông L và ông K nhờ ông N ký tên chứng kiến việc trên. Sau khi ông N đi ra ngoài, thì ông L ghi thêm việc phân chia tiền bán đất cho ông D, khi ông N trở vô thì thấy ông L và ông K lấy máy điện thoại ra chụp lại, sau đó ông N không đồng ý nên có gạch bỏ chổ phân chia tiền nêu trên.
Xét thấy lời trình bày của bà D là không có căn cứ để chấp nhận. Bởi vì trong quá trình thu thập chứng, tại biên bản đối chất ngày 30/6/2022 (Bút lục số 289) liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng giữa ông N với ông K, bà D nêu căn cứ để chứng minh giữa ông K với ông N thống nhất hủy hợp đồng chuyển nhượng đất là lời làm chứng của ông L và trong tờ giấy nháp do các bên (ông N, ông L, ông K) cùng ký tên, cụ thể như sau: “Bà D trình bày: Lời trình bày của người làm chứng (ông L) và trong tờ giấy nháp do các bên (ông Nh, ông L, ông K) cùng ký tên, trong đó có ghi số tiền mà các bên sẽ nhận. Tờ giấy trên do ông L và ông K ghi. Sau khi ghi xong ông L và ông K có lấy điện thoại ra chụp lại còn bản gốc là do ông Nh giữ” và bà D thừa nhận Tờ giấy phân chia tiền nêu trên là do ông L ghi, có sự chứng kiến của ông N và ông K.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/5/2022 ông L thừa nhận Tờ phân chia tiền trên là do ông cùng với ông N và ông K tính toán phân chia số tiền bán đất cho ông D theo tỷ lệ hùn vốn của các bên. Sau khi tính toán xong, các bên thống nhất nên cùng ký tên xác nhận vào tờ giấy trên để làm căn cứ, khi ông N nhận tiền chuyển nhượng từ ông D sẽ phân chia lại. Do Tờ phân chia trên chỉ ghi có 01 tờ, nên sau khi các bên thống nhất ký tên xong thì ông L và ông K chụp lại để làm căn cứ, còn bản gốc thì ông N giữ (sau này bà D cung cấp cho Tòa án). Qua đối chiếu Tờ phân chia tiền do ông K và ông L chụp lại giao nộp cho Tòa án có nội dung giống như Tờ phân chia tiền do bà D giao nộp cho Tòa án (Bút lục số 110), phù hợp với lời trình bày của ông L. Mặt khác, tại phiên tòa, bà D thừa nhận tại thời điểm ông N ký tên chuyển quyền các thửa đất nêu trên cho ông D và nhận số tiền chuyển nhượng đất còn lại tại Ủy ban nhân dân xã Phú Cường, lúc này cũng có mặt ông K và sau khi ông N nhận tiền chuyển nhượng của ông D không giao lại cho ông K, thì giữa ông K với ông N có phát sinh tranh chấp với nhau.
Nếu như Tờ thỏa thuận trên chỉ ghi việc tính toán hùn làm ăn giữa ông K với ông L không liên quan gì đến ông N như lời bà D trình bày, thì Tờ thỏa thuận này phải do ông K hoặc ông L là người quản lý mới đúng (vì không liên quan gì đến ông N), nhưng tờ thỏa thuận này lại do ông N quản lý, trong khi việc làm ăn giữa ông L với ông K không liên quan gì đến ông N là chưa phù hợp và trong quá trình thu thập chứng cứ, chính bà D cung cấp Tờ thỏa thuận này cho Tòa án để chứng minh việc ông K và ông N đã thống nhất hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa các bên (hợp đồng đặt cọc ngày 12/7/2021).
Mặt khác, theo bà D trình bày thì khi ông L và ông K tính toán việc làm ăn với nhau, có nhờ ông N ký tên chứng kiến. Sau khi ký tên chứng kiến xong, ông N đi ra ngoài khi trở vô thì ông L ghi thêm việc phân chia tiền bán đất cho ông D. Giã sử, nếu có việc ông L ghi thêm việc phân chia tiền bán đất cho ông D, thì ông L phải ghi phía dưới chử ký tên của ông N, ông L và ông K (vì ông N ký tên chứng kiến xong đi ra ngoài ông L mới ghi thêm vô sau), nhưng qua xem xét tờ phân chia thể hiện các nội dung các bên thống nhất ký tên đều nằm phía trên các chữ ký của các bên.
Việc bà D cung cấp Tờ thỏa thuận phân chia có gạch bỏ phần trên cùng và phần dưới cùng (02 phần này thể hiện việc phân chia số tiền chuyển nhượng đất giữa các bên), bà D thừa nhận việc gạch bỏ các dòng trên là do ông N tự gạch bỏ. Việc ông N quản lý Tờ thỏa thuận giữa các bên, tự ý gạch bỏ các dòng có liên quan đến quyền lợi của ông K và ông L, chưa được sự đồng ý của ông K và ông L là chưa đúng theo thỏa thuận giữa các bên. Như vậy, có căn cứ xác định Tờ thỏa thuận phân chia tiền, có chữ ký của ông K, ông L và ông N là căn cứ phân chia tiền giữa các bên, nên không có căn cứ để chấp nhận lời trình bày trên của bà D.
[5] Đối với yêu cầu khởi kiện của ông D, về việc yêu cầu những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông N sang tên phần đất mà ông N đã chuyển nhượng cho ông D với tổng diện tích là 35.859m2 gồm các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 178, 585, 177 và 179 cùng tờ bản đồ số 5, do ông Nguyễn Ngọc N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Xét thấy, yêu cầu này là không có căn cứ chấp nhận. Bởi vì; Ngày 28/01/2022, giữa ông D với ông N có thỏa thuận chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất trên với tổng diện tích là 35.859m2 với số tiền là 3.944.490.000 đồng. Bên ông D đưa cọc cho ông L 02 lần số tiền 1.100.000.000 đồng (trong đó có 900.000.000 đồng đưa tại Ngân hàng để tất toán hợp đồng vay) và đưa cho ông N 150.000.000 đồng. Tổng cộng là 1.250.000.000 đồng. Ngày 14/02/2022, giữa ông D và ông N đến Ủy ban nhân dân xã Phú Cường lập hợp đồng chuyển nhượng theo quy định và ông D đã trả đủ số tiền chuyển nhượng đất còn lại. Tuy nhiên, do ông N sau khi nhận tiền chuyển nhượng đất của ông D, không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với ông K (không giao tiền cho ông K theo thỏa thuận phân chia giữa các bên) dẫn đến ông K khởi kiện và yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 178 và 585 nên chưa làm thủ tục sang tên được. Việc ông K yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các thửa đất nêu trên là phù hợp và có căn cứ. Do đó, nghĩ nên hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông N với ông D đối với các thửa đất nêu trên là phù hợp là có căn cứ chấp nhận.
[6] Đối với hợp đồng chuyển nhượng các thửa đất số 177 và thửa 179 cùng tờ bản đồ số 5 hiện nay không tranh chấp. Bà D cũng đồng ý chuyển nhượng 02 thửa đất trên, nghĩ nên chấp nhận một phần yêu cầu của ông D, về việc chuyển nhượng 02 thửa đất trên.
[7] Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông N với ông D đối với các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 178 và 585 bị hủy là do lỗi của bên ông N, dẫn đến ông K tranh chấp và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các thửa đất nêu trên. Do đó, ông N phải có trách nhiệm trả lại số tiền chuyển nhượng đất đã nhận đối với các thửa đất nêu trên lại cho ông D và bồi thường thiệt hại cho bên ông D nhưng ông D không yêu cầu nên không xem xét giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này các bên có tranh chấp đối với hợp đồng chuyển nhượng các thửa đất nêu trên sẽ giải quyết bằng vụ kiện riêng.
[8] Ông K yêu cầu ông N phải trả lại cho ông số tiền lãi do chiếm dụng vốn của ông kể từ ngày ông nộp đơn khởi kiện (05/5/2022) theo mức lãi suất là 10%/năm. Xét thấy yêu cầu này là có căn cứ chấp nhận. Số tiền lãi được tính lãi 0,833%/tháng = 249.333.000 đồng.
[9] Đối với yêu cầu tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, để đảm bảo thi hành án cho ông K là phần đất thuộc các thửa đất số 284, 661, 662, 176, 178 và 585 có diện tích là 22.281m2 do ông Nguyễn Ngọc N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xét yêu cầu của ông K là phù hợp với các quy định của pháp luật và ông K cũng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với yêu cầu trên. Do đó, tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với phần tài sản trên, để đảm bảo thi hành án cho ông K.
[10] Đối với yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bên ông N thực hiện việc chuyển nhượng đất cho ông D. Như đã phân tích phần trên, mặt khác các thửa đất nêu trên vẫn do ông N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này.
[11] Do đó ông K được nhận lại toàn bộ số tiền đảm bảo đã nộp là 200.000.000 đồng, theo Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm của Tòa án.
[12] Ông Tr (đại diện hợp pháp của ông D) yêu cầu thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể: Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với thửa đất số 44, tờ bản đồ số 21; thửa đất số 103, tờ bản đồ số 25 và thửa đất số 07, tờ bản đồ số 25 do ông N đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để đảm bảo thi hành án sau này. Xét thấy, do chấp nhận yêu cầu ông K áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do đó, chỉ có ông K mới có quyền yêu cầu thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các quyết định trên. Mặt khác, bà D (đại diện hợp pháp của bà H) cũng không đồng ý thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời của ông D.
Do yêu cầu của ông D không được chấp nhận nên ông D phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chổ (đã nộp xong).
[13] Sau khi xét xử sơ thẩm thì Bà H, ông H, ông Th; ông D kháng cáo; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ kháng nghị yêu cầu sửa bản án sơ thẩm. Các đương sự không cung cấp thêm chứng cứ gì mới.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét:
- Về xác định quan hệ tranh chấp đối với số tiền chuyển nhượng đất cho ông N yêu cầu vốn và lãi là 2.119.333.000 đồng là quan hệ tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất là chưa phù hợp, bởi ông K đã thống nhất việc chuyển nhượng đất cho ông D là hợp pháp chỉ tranh chấp yêu cầu ông N trả tiền chuyển nhượng đất do đó này là quan hệ tranh chấp đòi lại tài sản tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Về nội dung kháng cáo của những người thừa kế ông Nh trình bày về hợp đồng đặt cọc số tiền 325.000.000 đồng không trả lại ông K là không có căn cứ vì trong hợp đồng đặt cọc không có thỏa thuận về mất tiền cọc. Ông K không thừa nhận đồng ý mất tiền cọc do đó không chấp nhận yêu cầu này.
- Đối với kháng cáo, kháng nghị tranh chấp đòi lại tài sản là số tiền chuyển nhượng đất và tính lãi chấp nhận yêu cầu ông K yêu cầu những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc Nh gồm bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th phải trả lại giá trị đất diện tích 17.000m2 với giá 1.870.000.000 đồng và tính lãi 249.333.000 đồng, tổng cộng 2.119.333.000 đồng. Xét thấy, bản án sơ thẩm nhận định ông K có hùn chuyển nhượng đất 17.000m2 do ông N đứng tên dùm để buộc hàng thừa kế của ông Nh trả lại tiền chuyển nhượng giá 1.870.000.000 đồng trả cho ông K là có đủ căn cứ. Vì thỏa thuận giữa ông Nh, ông K, ông L tại phiên tòa ông L, ông K vẫn thống nhất về phần tiền hùn giữa các bên. Như nhận đinh Tòa án cấp sơ thẩm có đủ chứng cứ chứng minh ông K, ông L có nhận chuyển nhượng đất từ ông S. Ông K, ông L có thỏa thuận để ông N đứng tên quyền sử dụng đất; phần hùn của ông Nh là 5.000m2. Ông Nh thừa nhận hùn mua đất với ông L; không có chứng cứ chứng minh nhận chuyển nhượng đất tăng diện tích lên; ông L thừa nhận phần hùn của ông L là 13.859m2, ông Nh diện tích 5.000m2, ông K là 17.000m2. Cuối cùng Ông Nh, ông K, ông L có thỏa thuận nhau về phần tiền chuyển nhượng đất từng người được nhận sau khi chuyển nhượng (giấy không đề ngày tháng năm có 03 người ký tên, do ông Nh giữ; theo hình ảnh K chụp hình lưu lại là ngày 27/12/2021). Ông Nh thừa nhận giấy này nhưng không thừa nhận là cách tính toán tiền các bên, ông Nh ký tên vào tờ giấy chỉ là người làm chứng nhưng ông lại là người giữ giấy và tự gạch bỏ nội dung trong tờ giấy mà ông L, ông K không biết, không đồng ý nên lời trình bày ông Nh không có phần ông K là không có cơ sơ chấp nhận.
- Ông Nh ngoài trả tiền diện tích 5.000m2 không có chứng cứ trả thêm tiền chuyển nhượng đất tranh chấp với ông K. Ông L thừa nhận đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng đất, các đương sự thống nhất phần tiền chuyển nhượng đất vay thiếu ngân hàng do ông D đưa trả ngân hàng để thực hiện hợp đồng chuyển nhượng được tính vào phần hùn của ông L, ông L hưởng chênh lệch giá trị tiền đất chuyển nhượng của ông D; ông L không có tranh chấp phần tiền ông K đang khởi kiện ông Nh. Ông Nh thừa nhận đã nhận tiền chuyển nhượng đất của ông D đủ. Do đó nên yêu cầu ông K có căn cứ chấp nhận số tiền là 1.870.000.000 đồng.
- Tuy nhiên đối với số tiền lãi là 249.333.000 đồng buộc ông Nh phải trả cho ông K là chưa đúng quy định vì đây là hợp đồng chuyển nhượng đất, ông K kiện đòi lại ông Nh số tiền nhận từ ông D nhưng không đưa lại ông K; các bên không có thỏa thuận về thời hạn đưa tiền, nghĩa vụ phải chiu tiền lãi do chậm thực hiện do đó không chấp nhận yêu cầu này của ông K.
Đối với ông S theo Giấy sang nhượng ngày 21/8/2019, ông K với ông L có thỏa thuận hùn sang nhượng của ông S phần đất ruộng với diện tích là 35.850m2 gồm 08 thửa với giá chuyển nhượng là 100.000.000 đồng/1.000m2. Sau khi 02 bên thỏa thuận mua bán xong, ông K có đưa cho ông S 50.000.000 đồng tiền đặt cọc, ngày 23/8/2019 ông chuyển tiếp tiền sang nhượng đất cho ông S là 1.450.000.000 đồng để 2 bên ký hợp đồng sang tên. Ông S đã được Tòa án cấp sơ thẩm đối chất ghi lời khai ông S thừa nhận nội dung này; ông S không có tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng đất với ông K. Do đó vẫn giữ nguyên về hợp đồng chuyển nhượng đất này.
Đối với kháng cáo, kháng nghị 02 Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02, 05 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông. Xét hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa ông N và ông D thì bên ông D đã trả đủ tiền, ông N đã giao đất, Hợp đồng được Ủy ban nhân dân xã Phú Cường chứng thực ngày 14/2/2022 theo quy định pháp luật và phần đất này theo ông D trình bày (kèm theo tài liệu là Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ) phần đất này sẽ đưa được góp vốn vào Công ty Thủy sản Tam Nông để thực hiện dự án mà được Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Đ. Ông K, ông L, bà D thì xác định phần đất kê biên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông D, thống nhất hợp đồng chuyển nhượng giữa ông N và ông D, việc ông D giao tiền cho ông N là phù hợp. Ông D không biết, không có thỏa thuận nào với ông K. Như vậy, người có nghĩa vụ trả tiền cho ông K theo khởi kiện của ông K là ông N không phải ông D nhưng Tòa án huyện Tam Nông lại áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để kê biên tài sản của ông D là không đúng theo Điều 126 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về việc Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Do đó chấp nhận kháng cáo, quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đối với nội dung này.
[14] Về chi phí tố tụng: Theo bản án sơ thẩm ông D chịu toàn bộ số tiền 19.836.000 đồng là chưa phù hợp. Do sửa bản án sơ thẩm nên ông D, ông K, ông N là người phải chịu chi phí tố tụng nếu bên nào không được chấp nhận yêu cầu theo quy định pháp luật. Nhưng xét do ông K, ông D được chấp nhận yêu cầu nên không phải chịu chi phí tố tụng. Ông N (những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng gồm bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th) buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu khởi kiện nên là người phải chịu chi phí tố tụng.
[15] Do đó Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận kháng cáo, chấp nhận kháng nghị; sửa bản án sơ thẩm là có một phần phù hợp, đúng quy định pháp luật nên chấp nhận một phần. Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định sửa bản án sơ thẩm. Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[16] Về chi phí, án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án dân sự sơ thẩm nên người kháng cáo bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; ông Nguyễn Tấn D không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th.
- Chấp nhận kháng cáo ông Nguyễn Tấn D.
- Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
- Sửa một phần bản án sơ thẩm.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Đăng K đối với những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th về việc hủy hợp đồng đặt cọc ngày 12/7/2021 giữa ông Hà Đăng K với ông Nguyễn Ngọc Nh.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th có trách nhiệm trả lại cho ông Hà Đăng K số tiền đặt cọc chuyển nhượng đất đã nhận là 325.000.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Đăng K đối với những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc N trả lại số tiền chuyển nhượng đất đã nhận.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th có trách nhiệm trả lại cho ông Hà Đăng K giá trị đất số tiền là 1.870.000.000 đồng.
- Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 03/3/2022 và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2022/QĐ-BPKCTT ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông.
4. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông Hà Đăng K được nhận lại toàn bộ số tiền bảo đảm đã nộp là 200.000.000 đồng, tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam, chi nhánh huyện Tam Nông, theo Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 01/2022/QĐ-BPBĐ ngày 02/3/2022 và Quyết định số 03/2022/QĐ-BPBĐ ngày 11/8/2022 của Tòa án.
5. Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Tấn D đối với những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th có trách nhiệm sang tên phần đất đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tấn D các thửa đất:
- Thửa đất số 177, tờ bản đồ số 5, diện tích 10.959m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS07369, cấp ngày 14/11/2019.
- Thửa số 179, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.619m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS07371 cấp ngày 14/11/2019.
- Thửa đất số 176, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.393m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS07386, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019.
- Thửa đất số 585, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.500m2; mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS07365, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019.
- Thửa đất số 178, tờ bản đồ số 5, diện tích 13.438m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS07370, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019.
- Thửa đất số 284, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.950m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS07372, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019.
- Thửa đất số 661, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.000m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS07366, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019.
- Thửa đất số 662, tờ bản đồ số 5 diện tích 1.000m2, mục đích sử dụng đất: Đất chuyên trồng lúa nước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS07367, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 14/11/2019.
Do ông Nguyên Ngọc N đứng tên quyền sử dụng đất. Vị trí, diện tích theo đo đạc thực tế, cụ thể như sau:
Thửa số 177: diện tích 10.959 m2, trong phạm vi các mốc số C, B, 16, 9 trở về mốc C.
Thửa số 179: diện tích 2.619 m2, trong phạm vi các mốc A, 13 , 14, 15, B trở về mốc A.
Thửa số 176, diện tích 2.393m2, trong phạm vi các mốc A, B, C, 10, 11, 12 trở về mốc A.
- Hiện nay thửa 177, 179, 176, tờ bản đồ số 5 qua đối chiếu sang bản đồ chính quy thành thửa 1351, tờ bản đồ số 9, diện tích 15.971m2, phạm vi các mốc 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16 trở về mốc 9.
Thửa số 284 diện tích 2.950m2 (đo đạc thực tế 3.463m2), trong phạm vi các mốc 4, 5, 6, 19, 20, 3 trở về mốc 4.
- Hiện nay thửa 284, tờ bản đồ số 5 qua đối chiếu sang bản đồ chính quy thành thửa 437, tờ bản đồ số 9, diện tích 3.463m2, phạm vi các mốc 3, 4, 5, 6, 19, 20 trở về mốc 3.
Thửa số 585 diện tích 1.500m2, trong phạm vi các mốc 16, I, D, 9 trở về mốc 16.
Thửa số 178 diện tích 13.438m2 (đo đạc thực tế 12.894m2), trong phạm vi các mốc 14, J, G, 15 trở về mốc 14.
Thửa số 662 diện tích 1.000m2 (đo đạc thực tế 929,8m2), trong phạm vi các mốc H, G, F, E trở về mốc H.
Thửa số 661 diện tích 1.000m2, trong phạm vi các mốc I, H, E, D trở về mốc I.
- Hiện nay thửa 585, 178, 661, 662, tờ bản đồ số 5 qua đối chiếu sang bản đồ chính quy thành thửa 315, tờ bản đồ số 9, diện tích 16.882,2m2, phạm vi các mốc 8, 17, 14, 15, 16, 9 trở về mốc 8.
Đất tọa lạc xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đ.
(Theo sơ đồ đo đạc ngày 18/8/2022 và sơ đồ chỉnh lý ngày 21/6/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tam Nông và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/8/2022 của Tòa án).
Các đương sự được đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
6. Về chi phí tố tụng: Bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th chịu toàn bộ tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 19.836.000 đồng. Do ông Nguyễn Tấn D đã nộp tạm ứng nên buộc bà H, ông H, ông Th có trách nhiệm trả lại số tiền 19.836.000 đồng cho ông D.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc Th được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Hà Đăng K được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 31.800.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003553 ngày 23/02/2023 và biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 00003690 ngày 16/5/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông.
- Ông Nguyễn Tấn D không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, ông D được nhận lại số tiền đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0013104 ngày 16/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông.
8. Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Nguyễn Tấn D không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Ông D được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001364 ngày 21/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đ.
- Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Ngọc N gồm: bà Lê Thị H, ông Nguyễn Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc Th, không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Bà H, ông H, ông Th được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0001363 ngày 19/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 234/2024/DS-PT
Số hiệu: | 234/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/05/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về